Saturday, November 22, 2008

Nhà máy điện hạt nhân sẽ xây theo diện chìa khoá trao tay

12/1/2006
Nhà máy điện hạt nhân đầu tiên của Việt Nam sẽ được triển khai xây dựng vào năm 2015 và đi vào vận hành năm 2020 theo phương thức chìa khoá trao tay. Đây là nội dung của Chiến lược ứng dụng năng lượng nguyên tử VN, vừa được Chính phủ phê duyệt.

Cũng theo bản "Chiến lược ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hoà bình đến năm 2020", Việt Nam đặt mục tiêu nâng tỷ lệ điện hạt nhân lên khoảng 11% tổng lượng điện quốc gia vào 2025 và 25-30% vào năm 2040-2050.

Điện hạt nhân đang cung cấp trên 16% tổng sản lượng điện toàn thế giới. Trong khi đó, lợi nhuận thu được từ ứng dụng năng lượng bức xạ lớn gấp 7 lần vốn đầu tư cho nó, có những lĩnh vực tới 40 lần.

Bên cạnh điện hạt nhân, năng lượng nguyên tử còn được ứng dụng rộng rãi trong những lĩnh vực khác của đời sống như y tế, nông nghiệp, địa chất, thăm dò khoáng sản... (ở dạng này nó được gọi là năng lượng bức xạ). Ở Việt Nam, ngành y tế sử dụng gần 90% các cơ sở bức xạ, còn lại là công nghiệp và các ngành khác.

Chính vì thế, bản Chiến lược cũng đặt ra mục tiêu đến năm 2010, VN sẽ tự sản xuất được một nửa nhu cầu về đồng vị và dược chất phóng xạ, một nửa số tỉnh có cơ sở y học hạt nhân và xạ trị, và đến 2020, mục tiêu cho hai loại này đều là 100%.

Source: VNE
Read full post...

Chương trình điện hạt nhân: Thiếu cán bộ chuyên môn có trình độ cao

26/10/ 2005
Theo dự báo của Viện Năng lượng nguyên tử: năm 2020, tổng nhu cầu điện ở Việt Nam vào khoảng 200 - 230 tỷ KW/giờ- Trong khi tổng nguồn năng lượng phục vụ sản xuất điện chỉ đạt 165 tỷ kw/giờ, như vậy nước ta vẫn còn thiếu khoảng 65 tỷ KW/giờ. Nếu Chính phủ quyết tâm đầu tư xây dựng nhà máy điện nguyên tử đầu tiên của Việt Nam, thì nhà máy có thể phát điện vào năm 2017 - 2020. Tuy nhiên vấn đề con người là một trong những thách thức lớn đối với Việt Nam trong quá trình xây dựng nhà máy điện nguyên tử.

Ngày 5-10-2004 , Thủ tướng Phan Văn Khải đã ký Quyết định số 176/2004/QĐ - TTG phê duyệt chiến lược phát triển ngành điện ở Việt Nam giai đoạn 2004 - 2010 và các định hướng đến năm 2020- Quyết định đã khẳng định khả năng phát triển năng lượng hạt nhân tại Việt Nam với mục tiêu có 2.000 MW sau năm 2015.

Tiếp đó, đầu năm 2005, Viện Năng lượng nguyên tử đã xây dựng lộ trình rất cụ thể để từng bước hoàn thành chiến lược CP đề ra: các năm 2005 - 2007 nghiên cứu khả thi, các hoạt động đào tạo đầu tiên đặc biệt chuẩn bị các khả năng chuyên môn cần thiết cho việc kiểm soát an toàn hạt nhân; 2008 -2010 chuẩn bị khởi động và mời gọi thầu, thương thảo liên quan song song với việc chuẩn bị địa điểm xây dựng; 2011 - 2017 xây dựng trong thời hạn 7 năm từ lúc ký hợp đồng đến ngày đưa lò hạt nhân đầu tiên vào hoạt động.

Gần đây, tại Hội thảo Công nghệ Việt - Pháp với mục đích lựa chọn công nghệ, địa điểm xây dựng nhà máy điện nguyên tử, Tiến sĩ Trần Thanh Liễn, Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam cho biết: Việt Nam đang đối mặt với nhu cầu rất lớn về cán bộ chuyên môn có trình độ cao để thực hiện chương trình điện hạt nhân mà mục tiêu là xây dựng nhà máy điện nguyên tử vào năm 2020.

Nguồn nhân lực cho ngành khoa học hạt nhân nói chung và chương trình điện hạt nhân ở nước ta thật khó khăn.

Theo hướng dẫn của cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (JAEA) để xây dựng và đưa một nhà máy điện hạt nhân vào hoạt động cần khoảng 3.500 - 4.500 người, trong đó có khoảng 500 - 700 người có trình độ đại học và trên đại học, 700 - 1.000 kỹ thuật viên và 2.200 - 3.000 công nhân lành nghề. Việc đào tạo cán bộ đủ chuyên môn trong khâu xây dựng dự án, quản lý dự án, kỹ thuật, giám sát đến chạy thử nghiệm vận hành và bảo trì, quản lý chất thải phóng xạ là không dễ dàng và không thể thực hiện trong một thời gian ngắn, dù có đầy đủ cơ sở vật chất.

Hiện nay, Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Đà Lạt mỗi năm đào tạo khoảng 30 sinh viên, chuyên ngành hạt nhân. Nếu mỗi năm Việt Nam đào tạo được 70 - 100 người thì phải sau 12 - 15 năm mới có đủ số cán bộ chuyên môn này. Tính đến đầu năm 2005, Việt Nam mới có khoảng 600 cán bộ làm việc trong ngành hạt nhân, chủ yếu là cán bộ của Viện Năng lượng nguyên tử.

Trong khi đó, số cán bộ của Viện trong 10 năm qua lại suy giảm do nhiều nguyên nhân: chuyển ngành , làm việc cho công ty nước ngoài, ở nước ngoài dài hạn. Điều đáng quan tâm là nhân lực ngành hạt nhân đang bị già hóa, tuổi trung bình của cán bộ trong Viện là 45, rất ít cán bộ giỏi dưới 35 tuổi đưa đi đào tạo tại nước ngoài.

Viện Năng lượng nguyên tử, là cơ quan chuyên bao tiêu "sản phẩm" đầu ra, thực hiện chính sách cấp học bổng cho sinh viên giỏi để đào tạo đội ngũ phục vụ cho ngành mình. Nhưng biện pháp tình thế này cũng chưa đủ mạnh để tạo sức hút đối với những sinh viên thực sự có năng lực. Một trong những nguyên nhân là do sinh viên tốt nghiệp khó kiếm được việc làm, hoặc có thì mức lương cũng rất khiêm tốn so với các ngành học khác.

Như vậy, vấn đề nhân lực trong ngành điện hạt nhân, nhất là trong giai đoạn Việt Nam đang phấn đấu đưa nhà máy điện nguyên tử đầu tiên vào hoạt động trong năm 2020 trở thành thách thức lớn. Ngành hạt nhân cần có biện pháp đào tạo hữu hiệu để bổ sung đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao đáp ứng nhu cầu của ngành mình và của sự nghiệp xây dựng đất nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Theo: TTXVN
Read full post...

Ứng dụng kỹ thuật hạt nhân trong khai thác dầu khí

24/10/2005
Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt đã thành công trong việc phát triển một số kỹ thuật khảo sát dùng đồng vị phóng xạ đánh dấu, phục vụ công nghệ khai thác dầu tại các mỏ trên thềm lục địa Việt Nam.

Trước đây, công nghệ khai thác dầu khí với phương pháp truyền thống bơm nước vào mỏ để duy trì áp suất vỉa và đẩy dầu về vùng khai thác. Kiểm soát bơm ép nước và hạn chế ngập nước trong giếng khai thác là việc làm rất khó đối với các Cty khai thác.

Phòng thí nghiệm ứng dụng kỹ thuật hạt nhân trong công nghiệp (Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt ) ứng dụng phương pháp đồng vị phóng xạ để đánh dấu khảo sát quá trình công nghiệp, nghĩa là kỹ thuật soi, dùng tia phóng xạ truyền qua lấp hình ảnh, một số kỹ thuật phân tích trực tiếp trên vật mẫu...

Gần đây, phương pháp đánh dấu đồng vị phóng xạ được ứng dụng trong khai thác dầu khí để theo dõi sự di chuyển của nước bơm ép trong mỏ, chẩn đoán tối ưu hóa các quá trình công nghệ nhằm góp phần đảm bảo chất lượng, an toàn trong sản xuất và đời sống.

Công nghệ trên được Cty Khai thác dầu khí Việt Nam và quốc tế sử dụng khai thác trên thềm lục địa Việt Nam tại mỏ Bạch Hổ, Rạng Đông... nhằm tăng cường hiệu quả khai thác.

Tiếp đó, Phòng thí nghiệm của Viện đã trúng thầu quốc tế, trị giá hợp đồng hơn 0,5 triệu USD trên mỏ Sư Tử đen trước nhiều Cty khảo sát lớn đến từ các nước Anh, Mỹ, Na Uy. Đó chính là một bằng chứng về ý nghĩa khoa học và giá trị kinh trị kinh tế của công nghệ mới này.

Từ đó Phòng thí nghiệm của Viện đã tham gia vào các "sân chơi lớn" trên thế giới như Chương trình hợp tác nghiên cứu quốc tế của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế, Hiệp hội kỹ sư dầu khí Quốc tế SPE, Hiệp định Hợp tác kỹ thuật Vùng Châu Á Thái Bình Dương, Hợp tác với Tracer Technoiogies International của Hoa Kỳ.

Để có được kết quả đó, các cán bộ trong phòng đã phải tự bỏ kinh phí đi học tập ở nước ngoài, mời chuyên gia các nước sang giúp đỡ về chuyên môn, tự mua thiết bị nghiên cứu, tự trả lương cho cán bộ khoa học ngoài biên chế.

Đến nay, với thành công nghiên cứu ứng dụng, các nhà khoa học đã ký được nhiều hợp đồng giá trị lên tới 13 tỷ đồng, đóng góp nghĩa vụ cho Nhà nước hàng tỷ đồng, đóng góp trên 70% tổng doanh thu của Viện Nghiên cứu hạt nhân.

TS Nguyễn Hữu Quang - Viện nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt - cho biết: Với phương châm "Lao động sáng tạo, phấn đấu không mệt mỏi, sử dụng các nguồn kinh phí, tích cực nghiên cứu khoa học", Phòng thí nghiệm ứng dụng kỹ thuật hạt nhân đã nâng cao trình độ, thiết bị Phòng thí nghiệm theo tiêu chuẩn thế giới, tham gia vào dịch vụ kỹ thuật Quốc tế, mở rộng thị trường, ứng dụng trên các mỏ ngoài lãnh thổ Việt Nam.

"Máy lấy mẫu trên dầu giếng" là sản phẩm mới thiết kế, chế tạo đạt chứng chỉ quốc tế được nhiều Cty dầu khí đánh giá cao và có kế hoạch lắp đặt trên các giàn khoan ngoài biển.

Ngoài ứng dụng trong dầu khí, các nhà khoa học còn nghiên cứu phát triển ứng dụng trong các ngành công nghiệp khai thác: hóa chất, xây dựng, vật liệu, năng lượng... hợp tác với các trường đại học, tổ chức đào tạo truyền bá kiến thức về khoa học công nghệ hạt nhân tạo ra thị trường ứng dụng lâu dài. Đồng thời, Phòng cũng sẽ mở thêm hướng nghiên cứu "Địa vật lý hạt nhân" nhằm phục vụ công nghiệp thăm dò khai thác dầu khí, khai khoáng.

Sorce: tienphongonline
Read full post...

Công nghệ nào cho nhà máy điện hạt nhân VN?

19/10/2005
Dự kiến Việt Nam sẽ có nhà máy điện hạt nhân (ĐHN) vào khoảng năm 2020. Tuy nhiên, nên sử dụng một hay nhiều công nghệ? Để làm rõ hơn về vấn đề này, VietNamNet đã có cuộc trao đổi với PGS.TS Nguyễn Tiến Nguyên, nguyên Giám đốc Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam, bên lề Hội thảo Công nghệ Pháp-Việt.

*Gần đây Việt Nam đã phối hợp với Hàn Quốc, Nhật Bản, Pháp... tổ chức nhiều hội thảo nhằm trao đổi, học hỏi kinh nghiệm về phát triển ĐHN. Theo ông, trong tương lai Việt Nam nên lựa chọn một hay nhiều công nghệ?

-Tôi cho rằng Việt Nam nên thúc đẩy các đối tác thành lập một consortium gồm nhiều nước để làm việc với Việt Nam về ĐHN, chẳng hạn như consortium gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp, Mỹ, Nga... Trong trường hợp như thế sẽ có rất nhiều thuận lợi, vì consortium huy động được nhiều vốn hơn, tạo mối quan hệ đa phương bền vững, lâu dài và một rào chắn chính trị, nghĩa là các nước tham gia đều có quyền lợi, giảm ''sự đối đầu'' giữa họ với nhau. Còn Việt Nam có thể lựa chọn điểm mạnh công nghệ của từng đối tác, chẳng hạn như Nhật Bản mạnh về điện tử, điều khiển... Nói cách khác ta có thể kết hợp ưu điểm công nghệ riêng của nhiều nước khác nhau vì một nhà máy ĐHN rất lớn, nhiều thiết bị, phụ tùng. Làm như thế sẽ tốt hơn so với chỉ có một đối tác.

*Vậy có sợ công nghệ của các nước không đồng bộ với nhau?

Thực ra hiện nay công nghệ của các nước tương đối chuẩn hoá, thiết kế theo xu hướng modul hoá nên có thể giải quyết được những vấn đề đó, chẳng hạn như hệ lò phản ứng của nước A và hệ điều khiển của nước B có thể phối hợp với nhau. Một số nước như Hàn Quốc đã làm như vậy. Do đó phải xem xét, cân nhắc kỹ.

*Dự kiến tới năm 2020 Việt Nam sẽ có nhà máy ĐHN đầu tiên. Tuy nhiên hiện vẫn chưa lựa chọn được công nghệ. Vấn đề này có làm chậm kế hoạch đó không?

Theo tính toán của các chuyên gia năng lượng , mức độ huy động tối đa khả năng các nguồn năng lượng nội địa của VN tới năm 2020 có thể đạt 165 tỷ kWh, trong đó thuỷ điện chiếm 58 tỷ, nhiệt điện khí 78 tỷ, nhiệt điện than 37 tỷ và năng lượng mới 2 tỷ kWh.

Khi đó VN còn thiếu khoảng 36-65 tỷ kWh. Nhập khẩu điện và than để giải quyết sự thiếu hụt này không phải là phương án tối ưu nếu nhìn nhận từ góc độ an ninh năng lượng quốc gia và phát triển bền vững.

Do vậy, ngoài các nguồn năng lượng tái sinh như gió, mặt trời, năng lượng sinh khối..., phát triển điện hạt nhân là cần thiết nhằm đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.

Chắc là sẽ chậm vì Việt Nam vừa mới hoàn thành Dự án nghiên cứu tiền khả thi xây dựng nhà máy ĐHN đầu tiên và trình Thủ Tướng Chính phủ. Sau đó sẽ là giai đoạn khả thi, chọn địa điểm xây dựng, thiết kế kỹ thuật, đấu thầu... Những công đoạn này phải mất vài năm. Còn kể từ khi khởi công xây dựng thì phải mất 7 năm mới hoàn thành xong nhà máy. Do vậy, nếu định năm 2020 có nhà máy ĐHN thì bây giờ ta phải tiến hành rất quyết liệt rồi, nhưng hiện nay lại chậm.

*Xây một nhà máy ĐHN gồm 2 tổ máy tại một địa điểm tốn khoảng 4 tỷ đôla trong khi tuổi thọ của một nhà máy thường là 40-50 năm. Vậy khả năng thu hồi vốn sẽ như thế nào và giá điện hạt nhân có cao hơn giá điện từ các nguồn trong nước hiện có?

Khả năng thu hồi vốn khá nhanh song còn phụ thuộc vào cơ cấu vốn, liệu đó là vốn vay trả chậm hay vốn của Việt Nam. Hiện so với các nguồn trong nước thì giá điện hạt nhân cao hơn. Nếu so với giá nhập khẩu thì ĐHN cạnh tranh được. Tuy nhiên, trong vấn đề năng lượng, ngoài giá còn có vấn đề an ninh năng lượng quốc gia và nhiều khi cũng phải trả giá cho cái đó. Chẳng hạn nếu ta phải nhập khẩu than thì sẽ gặp khó khăn do tình hình an ninh trong vận chuyển, giá than dao động không kém giá dầu trong tương lai...

*Ông đánh giá thế nào về ý kiến cho rằng xây dựng nhà máy ĐHN ở VN hiện không an toàn do tình trạng thất thoát trong xây dựng cơ bản, nhập khẩu công nghệ và thiếu nguồn nhân lực?

Điều đó đúng. Hiện nay ta chưa đủ nhân lực và tác phong cũng chưa được. Tuy nhiên, phải nhìn rộng. Chẳng hạn trong xây dựng hiện có nhiều thất thoát nhưng các bạn có tin là tới năm 2020 tình hình sẽ được cải thiện? Điểm thứ hai là nếu ta quyết tâm đào tạo và tập trung một lực lượng tinh nhuệ thì sẽ làm được. Có những lĩnh vực đòi hỏi độ an toàn rất lớn mà ta vẫn đảm bảo được như an toàn hàng không, công nghệ dầu khí, công nghệ đóng tàu, xây dựng thuỷ điện. Vấn đề là phải biết tập trung, có những điểm nhấn, kể cả nhân lực, kỷ luật.

*Trước khi xây dựng nhà máy ĐHN tại một địa điểm nào đó sẽ phải thăm dò ý kiến người dân. Vậy nếu người dân phản đối?

Bản thân tôi đã chủ trì triển lãm ĐHN ở Ninh Thuận và Phú Yên, hai vùng được xếp hạng ưu tiên đặt nhà máy ĐHN đầu tiên. Trước khi tổ chức hội thảo và thuyết trình thì đại đa số người dân phản đối. Nhưng sau hội thảo và thuyết trình thì đại đa số lại ủng hộ. Vấn đề là phải chuẩn bị rất kỹ, cụ thể là cung cấp thông tin trung thực.

Xin cảm ơn ông!


Soure: VNN
Read full post...

Friday, November 21, 2008

Công nghệ hạt nhân thâm nhập vào cuộc sống

27/10/2005
Một trăm công trình nghiên cứu lớn nhỏ được trình bày ở một diễn đàn khoa học tổ chức cạnh lò phản ứng hạt nhân đầu tiên của Việt Nam, trên thành phố cao nguyên Đà lạt.

Cùng với những báo cáo trong tay, khoảng hai trăm cán bộ khoa học đang có mặt ở Viện Nghiên cứu Hạt nhân (Đà Lạt), tham gia hội nghị khoa học và công nghệ hạt nhân toàn quốc lần thứ VI, trong 2 ngày 26-27.10.2005.

Một cuộc gặp mặt thường kỳ, hai năm một lần. Họ đến, phần lớn, từ những cơ sở nghiên cứu R-D của Viện Năng lượng Nguyên tử Việt nam như Viện Khoa học và Kỹ thuật hạt nhân (Hà Nội), Viện Công nghệ Xạ Hiếm (Hà Nội), Trung tâm Ứng dụng Hạt nhân và Trung tâm Chiếu xạ (Tp. HCM). Có cả những chuyên gia ở những lĩnh vực khác như đào tạo đại học, y tế, nông nghiệp, công nghiệp v.v... đến từ các trường đại học, bệnh viện lớn, đoàn địa chất, trung tâm nghiên cứu sinh học và nông nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long, Hà Nội v.v...

Những con số trên đây chứng tỏ rằng ngành khoa học và công nghệ hạt nhân ở nước ta đang tiếp tục tìm đến với những yêu cầu mới đặt ra trong các mặt hoạt động của đời sống, ngành năng lượng nguyên tử Việt nam đang mở rộng vai trò trong nền kinh tế Việt Nam đang trên đường hội nhập và phát triển. Các nhà nghiên cứu triển khai trong các lĩnh vực này đang đi tiếp con đường đã mở ra từ nửa thế kỷ trước, thậm chí từ những năm đầu của thế kỷ 20.

Từ chiếc kim Rađi của Marie Curie ở phố Quán sứ...

Y tế là ngành ứng dụng sớm nhất kỹ thuật hạt nhân ở Việt nam. Ngay từ năm 1923 những thanh phóng xạ Rađi kèm theo chứng chỉ sử dụng với chữ ký của nhà bác học vĩ đại Marie Curie đã được các thầy thuốc ở Việt Nam sử dụng để điều trị ung thư. Nơi ấy là khoa Radium thuộc bệnh viện Phủ Doãn, hay là Viện Rađium Đông Dương nằm trên phố Quán sứ của Hà Nội, bây giờ là Bệnh viện K. Sự kiện đó đưa Hà Nội trở thành một địa chỉ ứng dụng thành tựu công nghệ hạt nhân thuộc loại sớm nhất châu Á.

Dĩ nhiên, cái mốc thời gian 1923 ấy cũng chỉ có ý nghĩa lịch sử. Vì, tương tự các lĩnh vực khác, bước chuyển mạnh thực sự của những ứng dụng kỹ thuật hạt nhân trong chẩn đoán và chữa bệnh phải đợi đến sau hiệp định Genève, năm 1954. Ở Miền Bắc với sự giúp đỡ của Liên xô (cũ) và các nước Đông Âu, và ở Miền Nam, chủ yếu, với kỹ thuật từ Hoa kỳ. Cùng các thiết bị chữa trị khối u với "bom" Côban-60 là các cơ sở y học hạt nhân với phòng chẩn đoán và điều trị bằng dược chất phóng xạ, lần lượt ra đời ở Hà Nội và Sài gòn.

Đáng kể hơn cả là giai đoạn 30 năm gần đây, sau khi thống nhất đất nước và hồi phục lò phản ứng hạt nhân Đà lạt. Trong giai đoạn này, các ứng dụng kỹ thuật hạt nhân trong Y tế được phát triển cả bề sâu lẫn bề rộng, với trên 20 khoa y học hạt nhân, trên 10 "bom" côban ở các bệnh viện của 3 miền Bắc-Trung-Nam. Đặc biệt 4 máy gia tốc electron đặt ở các bệnh viện K (Hà Nội), Chợ Rẫy và Việt Pháp (Tp. HCM), trong bốn năm qua, đã đưa việc chữa bệnh hiểm nghèo lên một trình độ mới.
Trong sự phát triển đó, Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam đóng vai trò nổi bật như một trung tâm đầu mối chuyển giao công nghệ và cung cấp 40% lượng dựơc chất phóng xạ (điều chế trên Lò phản ứng ở Đà lạt) cho ngành y tế.

Trong hội nghị ở Đà lạt lần này, các bệnh viện đã gửi đến 13 báo cáo về kết quả điều trị bệnh ung thư trên máy gia tốc electron Siemens Primus (bệnh viện K, Hà Nội), về nâng cao chất lượng chụp ảnh gan, xương bằng đồng vị Tc99m và về chất lượng chữa bệnh bằng dựơc chất phóng xạ I-131 (chữa tuyến giáp, basedow), Re-188 (gan) và P-32 (xương). Đặc biệt, các bác sĩ của bệnh viện Chợ Rẫy đã có báo cáo tổng kết đầy ấn tượng về 10 năm nghiên cứu điều trị và kéo dài tuổi đời cho 1000 bệnh nhân ung thư bằng phương pháp hạt nhân.

Ra với dàn khoan ngoài biển khơi

Sau Y tế, ngành Địa chất cũng đến với công nghệ hạt nhân rất sớm. Sau 1954 cùng với các chuyên gia địa chất là các thiết bị sử dụng kỹ thuật hạt nhân từ các nước được đưa vào Việt Nam. Các nhà địa chất Việt Nam đã tiến hành đo xạ bằng máy bay, bằng đường bộ hay phân tích mẫu, đã thăm dò và phát hiện nhiều mỏ phóng xạ, các mỏ kim loại đen màu trong lòng đất. Các kỹ thuật mới dùng chùm gamma, nơtron cũng đã được sử dụng trong các lỗ khoan sâu. Nhờ vậy, nhiều tài nguyên quý ở núi cao, đồng bằng và ven biển đã được phát hiện. Từ khi lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt trở lại hoạt động (1983), hàng vạn mẫu địa chất đã được phân tích nhanh chóng bằng các phương pháp hạt nhân.

Trong lĩnh vực thủy văn, các phương pháp hạt nhân cũng được sử dụng hữu hiệu trong nghiên cứu, trong phát hiện và đánh giá tình trạng của các mạch nước ngầm, các vùng sa bồi (cảng Hải Phòng v.v...), các vùng ô nhiễm bề mặt, các con đập quan trọng (Thủy điện Hòa Bình, Trị An, ...) với sự tham gia của nhiều chuyên gia trong ngành năng lượng nguyên tử VN.

Đặc biệt, trong vài năm gần đây, một nhóm nghiên cứu từ lò phản ứng Đà lạt xuống núi, ra tận dàn khoan, dùng phương pháp đánh dấu phóng xạ để kiểm soát một chu trình khai thác dầu. Về kỹ thuật, trong chu trình khai thác, nước được bơm vào mỏ để ép đẩy dầu về các giếng khai thác. Như vậy, hiệu suất khai thác rất phụ thuộc hiệu quả bơm ép, tức là việc kiểm soát quá trình bơm ép nước có ý nghĩa kinh tế kỹ thuật lớn. Nhóm nghiên cứu Đà Lạt đã thành công trong việc áp dụng phương pháp đánh dấu phóng xạ để kiểm soát quá trình trên và được đối tác đánh giá cao. Phát huy thành công đó, họ đã tiến tới thắng thầu quốc tế năm 2004 trên mỏ Sư tử đen và ký được một số hợp đồng hàng chục tỷ đồng với các công ty khai thác dầu trong nước và quốc tế.

Đến với hội nghị Đà Lạt lần này, họ tổng kết những thành tựu thu được, đồng thời chia sẻ những dự định và quyết tâm đi về phía trước của mình, trong báo cáo "Cơ hội và thách thức của KHCN hạt nhân trong lĩnh vực khai thác dầu khí".

Tiềm lực ... tiềm năng

Trong đội ngũ "hạt nhân" hội quân về Đà lạt, ngoài những người thuộc binh chủng phục vụ trong ngành y và ngành địa chất thủy văn vừa điểm qua ở trên, còn nhiều “lính chiến” trong các lĩnh vực khác.

Riêng lĩnh vực Nông nghiệp và Sinh học khá đông đảo với 30 báo cáo phản ảnh những kết quả ứng dụng các phương pháp hạt nhân nhằm tăng sản lượng và chất lượng cây trồng, vật nuôi. Các chuyên gia thuộc Viện KH Nông nghiệp VN với báo cáo tổng kết về các thành tựu trong lĩnh vực "Gây đột biến chọn giống lúa" ở VN. Các chuyên gia nông nghiệp ở các trung tâm nghiên cứu phía nam trình bày những kết quả cụ thể, như "gây đột biến phóng xạ tạo giống lúa ngắn ngày, năng suất cao, phẩm chất tốt thích nghi với một số điều kiện khó khăn ở Nam bộ", "Kích thích sinh trưởng mẫu khoai tây", hoặc "Nghiên cứu nâng cao hiệu lực phân đạm bón cho lúa trong cơ cấu thâm canh bốn vụ trên đất bạc màu thông qua kỹ thuật đồng vị đánh dấu Nitơ 14" v.v và v.v... Tình hình trên đây là một dấu hiệu đáng khích lệ, vì ứng dụng kỹ thuật hạt nhân trong nông sinh vốn là lĩnh vực khó và đòi hỏi sự đầu tư công sức lâu dài.

Số báo cáo liên quan ứng dụng KTHN trong công nghiệp gửi đến hội nghị lần này khá khiêm tốn. Nhưng điều đó không phải là sự phản chiếu tình hình đang diễn ra ngoài đời sống. Vì thực tế, hàng trăm quy trình công nghệ đang vận hành dưới sự theo dõi và điều chỉnh bởi các thiết bị hạt nhân. Các phương pháp kiểm tra hạt nhân không hủy thể (NDT) đang có mặt trong nhiều ngành công nghiệp, ngành xây dựng ở nước ta. Trên "mặt trận" này đã và đang diễn ra nhiều cuộc đấu thầu, tranh chấp chọn lựa những nhà cung cấp thiết bị và công nghệ trong và ngoài nước. Đáng tiếc là trong nhiều trường hợp, ngay trên sân nhà, những nhà kỹ thuật trong nước phải chịu nhường bước vì tiềm lực yếu, trước hết là về tài chính và thiết bị.

Một số "thầy giáo hạt nhân" và các "nhà vật lý hạt nhân chính hiệu” cũng có mặt ở hội nghị, đóng góp những kết quả nghiên cứu, dù không đo đếm được bằng hiệu quả kinh tế, nhưng là những giá trị thực về khoa học.

Đó là những vấn đề nóng hổi trong lý thuyết hạt nhân, như "Nghiên cứu phương trình trạng thái vật chất hạt nhân qua mô tả vi mô phản ứng trao đổi điện tích (p,n)". Tác giả của báo cáo này đã có những bài báo đăng trong các tạp chí hàng đầu thế giới về vật lý. Đó là những kết quả khảo sát mới mẻ về tia vũ trụ thu được từ trạm quan sát VIALY ở Hà Nội. Điều này chứng tỏ rằng, các cán bộ khoa học trẻ nước ta có tiềm năng hội nhập với đời sống khoa học tầm cao của thế giới, nếu được sự trợ lực về thiết bị hiện đại.

Trong hội nghị còn có những báo cáo nghiên cứu liên quan vật lý lò, về thực nghiệm và lý thuyết. Các tác giả, phần lớn, là những kỹ sư vật lý đang vận hành tốt lò phản ứng. Đó là tiềm năng cho chúng ta tiếp cận với các công nghệ mới của lò phản ứng n ăng lượng khi có yêu cầu.

Chờ một đòn bẫy

Tuy nhiên, cũng nên nhìn nhận sâu hơn tiềm lực mà chúng ta đang có. Đáng lý, với đội ngũ cán bộ khoa học ấy, với một đất nước có 80 triệu dân này, mặt bằng khoa học phải ở tầm cao hơn, chẳng hạn, số công trình khoa học xuất hiện trên các tạp chí thế giới phải nhiều hơn, có tiếng vang hơn. Đáng lý, với đội ngũ những cán bộ khoa học triển khai (R-D) khá đông hiện nay, hiệu quả đóng góp kinh tế phải cao hơn, phải có thế mạnh hơn trong sự cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài ngay trên thị trường nội địa.

Có nhiều nguyên nhân lý giải điều này. Nhưng một nguyên nhân quan trọng là cơ sở vật chất chưa tương xứng, và sự đầu tư còn ở mức thấp. Điều này thể hiện, trước hết, ở tình trạng các phòng thí nghiệm, các thiết bị hạt nhân, đặc biệt sự thiếu hụt "các máy cái". Trong ngành hạt nhân máy cái là máy gia tốc, là lò phản ứng hạt nhân.

Sau khoảng 30 năm, các máy gia tốc nay đã trở nên già cỗi. Chỉ còn duy nhất một máy Microtron đang hoạt động ở giai đoạn cuối. Trong khi máy gia tốc là công cụ không thể thiếu cho đào tạo cán bộ và nghiên cứu triển khai về hạt nhân. Các máy gia tốc electron ở một số bệnh viện hiện nay chỉ chuyên dùng cho chữa bệnh. Về mặt này, các nước trong vùng như Indonesia, Malaysia, Thái lan, Singapore đang vượt chúng ta khá xa.

Sau 40 năm, lò phản ứng Đà lạt đã vượt qua tuổi thọ trung bình. Đó là lò phản ứng duy nhất, nhưng công suất thấp (500 kW) và đã xuống cấp sau 20 năm thăng trầm và, tiếp theo, 20 năm làm việc liên tục. Về mặt này, chúng ta cũng đứng sau vài ba nước trong vùng Đông Nam Á. Cũng nên nói thêm rằng, nhu cầu một lò phản ứng công suất cao hơn là một yêu cầu của nhiều ngành khoa học và kỹ thuật hạt nhân nước ta. Với một chương trình điện nguyên tử, yêu cầu đó càng cao hơn.

Rõ ràng, một sự đầu tư mạnh mẽ hơn về cơ sở vật chất kèm theo một cơ chế quản lý thích hợp sẽ là đòn bẫy cho sự phát triển ngành khoa học và kỹ thuật hạt nhân Việt Nam, tạo điều kiện cho nó đóng vai trò lớn hơn trong trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Điều này, có lẽ nằm ngoài tầm tay của bản thân những người làm khoa học công nghệ hạt nhân. Ngược lại, chính họ đang mong đợi ở các nhà hoạch định chính sách, các cấp quản lý.
Source: VietNamNet
Read full post...
Add to Technorati Favorites

From vituyen blog