Monday, December 1, 2008

'VN sẽ dẫn đầu vùng về điện hạt nhân'

05/06/2008
Báo Asia Times nói Việt Nam có khả năng thành quốc gia Đông Nam Á đầu tiên sử dụng năng lượng nguyên tử.

Trong bài của Andrew Symon trên Asia Times hôm 5/6, Việt Nam được coi là đã có kế hoạch phát triển năng lượng hạt nhân để đưa vào sử dụng năm 2025.

Tháng 5/2008 Việt Nam đã mở triển lãm lần thứ ba về công nghệ nguyên tử kể từ 2004.

Triển lãm diễn ra ngày 13 - 17/5 ở Hà Nội thu hút nhiều công ty của Pháp, Nga, Canada, Nhật, Nam Hàn và Trung Quốc.

Đại diện của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Liên Hiệp Quốc từ Vienna, Áo, cũng có mặt.

Việt Nam cũng được nói đã có kế hoạch xây dựng bốn nhà máy năng lượng hạt nhân với công suất tổng cộng 8000 megawatts.

Hai nhà máy đầu ở Ninh Thuận sẽ được hoàn tất vào 2020.

Đi đầu Đông Nam Á

Trong bối cảnh nhiên liệu từ dầu tăng giá, các nước Đông Nam Á đều đang tìm cách phát triển nguồn năng lượng nguyên tử.

Bài báo cho hay chính phủ Indonesia cũng có kế hoạch mở nhà máy đầu tiên ở trung tâm Java sau năm 2015 nhưng bị dư luận địa phương phản đối mạnh.

Việt Nam có thể gửi cán bộ sang để Hoa Kỳ giúp đào tạo
Vương Hữu Tấn, Giám đốc Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam

Thái Lan thì đang nghiên cứu khả năng xây một nhà máy vào 2020 dù dư luận vẫn chống.

Các cộng đồng và tổ chức phi chính phủ Thái nói kế hoạch sẽ làm thiệt hại cho việc xây hai nhà máy nhiệt điện chạy bằng than ở tỉnh Prachuap Kirikhan.

Philippines và Malaysia cũng bắt đầu nghiên cứu năng lượng nguyên tử.

Nhưng theo Asia Times, Việt Nam có nhiều cơ hội và khả năng nhất để dẫn đầu trong việc khai thác năng lượng hạt nhân trong vùng Đông Nam Á.

Dự kiến Quốc hội Việt Nam sẽ thông qua luật về ngành này ngay trong tháng 6/2008.

Được biết Hoa Kỳ cũng có hợp tác giúp Việt Nam trong việc phát triển công nghệ nguyên tử.

Hồi tháng 9/2007, Bộ Năng lượng Hoa Kỳ thông báo rằng các khoa học gia từ hai phòng thí nghiệm cấp quốc gia Lawrence Livermore và Oak Ridge được giao nhiệm vụ hợp tác với phía Việt Nam.

Sự hợp tác tập trung vào các vấn đề như các thủ tục vận hành lò phản ứng hạt nhân và ngăn ngừa phóng xạ.


Source: bbc.co.uk
Read full post...

Vietnam sets nuclear pace in Southeast Asia

Jun 5,2008
By Andrew Symon
HANOI - General Electric of the United States and Asian rivals in the nuclear power sector such as Daewoo and Toshiba are among companies looking to win big contracts in Southeast Asia as the region's countries turn to the once-shunned energy source to fuel future economic growth.

GE and companies from France, Russia, Canada, Japan, South Korea and China turned out in numbers at a nuclear industry exhibition in Hanoi last month, bidding to help Vietnam develop its first nuclear power facilities.

High global fuel prices in the 1970s resulted in a raft of plants being built in Europe and North America. After a retreat in the 1980s over safety issues, interest in the nuclear option is reviving as Asia's surging power demands help spur global fossil fuel prices and pressure mounts to reduce growth in greenhouse gas emissions.

Vietnam is on track to become Southeast Asia's first country to take the nuclear plunge, with the government and its main energy-related agencies, the Vietnamese Atomic Energy Agency and Electricity Vietnam (EVN), advancing plans for huge expansion in power generation.

Vietnam plans to have four nuclear generation plants with a total of 8,000 megawatts (MW) capacity in operation by 2025. Two of those plants, each with two 1,000 MW units, are to be up and running by 2020 in Ninh Thuan province on the country's central coast. Construction is set to begin in 2015 and the government has earmarked US$6 billion for each plant.

So far, there is little if any public opposition to the development in the authoritarian country, increasing Vietnam's commercial attractiveness to the global nuclear industry.

In Indonesia, the government aims to have its first nuclear plant in operation some time after 2015 on the Central Java north coast. The outlook here is less certain, as public opposition is strengthening nationally and locally, to the extent that at least one Islamic religious leader has issued an edict against the plan. With national, regional and presidential elections scheduled for next year, Indonesia's nuclear plans could be derailed, some industry executives fear.

Thailand is also carrying out a feasibility study for a nuclear plant to be built in the country by 2020, although again public opposition might hinder progress. Community and non-governmental organizations in recent years managed to derail construction of two large coal-fired power plants in southern Prachuap Kirikhan province.

Elsewhere in the region, nuclear feasibility studies are underway by relevant government agencies in the Philippines and Malaysia.

The nuclear momentum appears to be strongest in Vietnam, where the government last August doubled its previous generation target of 4,000 MW to 8,000 MW goal by 2025. A law providing the framework for development of nuclear power plants and foreign investment in the industry, wider civilian applications for nuclear science, and safety and non-proliferation standards and controls is expected to be passed this month by the National Assembly. This will enable the government to get on with project planning and establish a tendering process for power plant construction, fueling and operation.

Before those laws were in place, the recent Hanoi exhibition attracted a who's who of global energy firms. Executives from France's Areva and Electricite de France (EDF) rubbed shoulders with their counterparts from Japan's Toshiba and Federation of Electric Power Companies, South Korea's Daewoo and the Korea Hydro and Nuclear Power Company. Representatives of General Electric, Russia's Rosatom and Atomostroi and China's Guangdong Nuclear Power Company were also present, as were officials of the United Nations' Vienna-based International Atomic Energy Agency.

The four-day exhibition from May 13-17 was the third in the country since 2004. Foreign companies are expected to play critical roles in supplying technology, education and training for Vietnamese scientists, engineers and technicians. The government also clearly hopes to finance the plants' construction through export-import credit schemes of the respective companies' governments.

The exhibition served a dual purpose of providing information to the Vietnamese public about the government's plans. In late May, more than 400 local representatives of the coastal Ninh Thuan province were invited by the government to voice opinions about proposed plants at a seminar co-organized by local power company EVN and Electricite de France. The state-controlled press reported that the response to the plant by the two districts' representatives at the meeting was largely positive.

Powerful diplomacy
The Vietnam exhibition also underlined the close links between business and government in the international nuclear industry.

The French consortium was strongly supported by the French Embassy in media statements and interviews at the Vietnam event. At a press conference, French nuclear power industry representatives pointed to a new government agency, the French International Nuclear Energy Agency, which had been established to provide experts to collaborate with foreign governments on feasibility studies, safety concerns and other issues.

The China Guangdong Nuclear Power Company's presentation signaled China's new goal of entering the global nuclear business as an investor and supplier rather than as a recipient of foreign expertise, equipment and investment. China's nuclear power expansion plans are the most ambitious in the world in terms of scale and speed of development. Established nuclear power players, including from Japan and South Korea, said they see Chinese rivals as a fast-rising, low-cost competitive threat.

Japan's Toshiba, Hitachi and Mitsubishi are also in the nuclear hunt and seem well placed to benefit from Tokyo's strong commercial diplomacy in the region. Coinciding with the Vietnam exhibition, the governments of Japan and Vietnam signed a bilateral assistance agreement. As part of that pact, Japan is scheduled to help Vietnam prepare and plan for the introduction of nuclear energy, educate experts in nuclear power and help the country formulate nuclear safety regulations.

Vietnam has also signed nuclear cooperation agreements with the governments of Russia, France, South Korea and the US. One potential commercial ace up the sleeve of Japanese companies is their government's push for new incentives to invest in nuclear power development in Southeast Asia and elsewhere.

Tokyo is lobbying for new nuclear facilities to be eligible, after the Kyoto climate change accord expires in 2012, for clean development mechanism (CDM) credits for carbon dioxide reduction achieved by not building new coal- and gas-fueled power plants.

Given the scale of nuclear power plants and the fact that plants emit nearly no greenhouse gases, CDM credits that could be sold on global carbon markets and used by companies and governments to meet mandatory carbon emissions targets elsewhere could have huge value. The Japanese government put its case forward at a UN climate change meeting in early April.

The proposal was left on the table, due mainly to developed countries' still strong concerns over safety and weapons proliferation. The Tokyo proposal is expected to resurface at another UN meeting on climate issues in Copenhagen in late 2009. The CDM scheme for nuclear power is expected to get a wider hearing as governments grapple with putting in place a successor agreement to Kyoto.

If adopted, the CDM proposal could have enormous implications for Southeast Asia's nuclear power development. The high capital costs associated with building nuclear power plants are at this point still expected to constrain the region's nuclear future, but those start-up costs would be mitigated significantly if new plants were entitled to CDM credits.

Andrew Symon is a Singapore-based analyst and writer specializing in energy and natural resources. He completed a study in April on nuclear power in Southeast Asia for the Lowy Institute for International Policy in Sydney, Australia. He may be contacted at andrew.symon@yahoo.com.sg
Source: atimes.com
Read full post...

QH thông qua Luật năng lượng nguyên tử

03/06/2008
Luật năng lượng nguyên tử (NLNT) đã được QH chính thức thông qua sáng nay (3/6) với 11 chương và 93 điều. Đây chính là bước quan trọng nhằm giải quyết về cơ bản tình trạng bất cập do thiếu các cơ chế, chính sách điều chỉnh phù hợp của Nhà nước.

Thực tế, nhiều quy định về NLNT xen kẽ trong một số văn bản nhưng cho đến nay, văn bản pháp luật duy nhất có tính chuyên ngành mới chỉ ở tầm pháp lệnh và chỉ có chức năng điều chỉnh một khía cạnh nhỏ trong lĩnh vực ứng dụng năng lượng nguyên tử. Đó là Pháp lệnh An toàn và Kiểm soát bức xạ năm 1996 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Trong báo cáo của UBTVQH sáng nay, các ý kiến giải trình hướng tới hơn 20 điểm trong Dự thảo luật. Tuy nhiên, một số vấn đề về phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử quốc gia, giải pháp nguồn nhân lực và địa điểm lưu khi, giữ chất phóng xạ là được quan tâm nhất. Trên cơ sở đó, báo cáo đã giải trình, tiếp thu và chỉnh lí một số điều khoản trong dự thảo luật này.

Hai hội đồng giám sát

Theo Luật NLNT, thực hiện việc nghiên cứu phát triển, ứng dụng và bảo đảm an toàn hạt nhân sẽ có 2 hội đồng đảm nhiệm việc tư vấn, hoạch định chiến lược và giám sát an toàn trong hoạt động NLNT.

Trong đó, Hội đồng Phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử quốc gia là hội đồng tư vấn của Thủ tướng Chính phủ trong việc hoạch định chiến lược, chính sách về phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử và trong việc quy hoạch, lập kế hoạch về nghiên cứu, phát triển và sử dụng năng lượng nguyên tử.

Còn Hội đồng An toàn hạt nhân quốc gia là hội đồng tư vấn của Thủ tướng Chính phủ về chính sách và biện pháp nhằm bảo đảm an toàn hạt nhân trong sử dụng năng lượng nguyên tử. Đặc biệt là việc bảo đảm an toàn trong quá trình hoạt động của nhà máy điện hạt nhân và các biện pháp xử lý khi có sự cố nghiêm trọng. Ngoài ra, Hội đồng này còn có chức năng xem xét, đánh giá báo cáo của nhà máy điện hạt nhân về tình trạng an toàn của nhà máy cũng như báo cáo thẩm định của cơ quan an toàn bức xạ và hạt nhân.

Trước việc nhiều ĐB đề nghị nên hợp nhất hai hội đồng này để phù hợp với xu hướng cải cách hành chính hiện nay, đồng thời bảo đảm tính thống nhất. Tuy nhiên, UBTVQH cho rằng nếu hợp nhất hai hội đồng này sẽ khó bảo đảm được tính khách quan khi vừa thực hiện tư vấn, hoạch định chiến lược, chính sách, vừa tư vấn về bảo đảm an toàn trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.

Qua nghiên cứu kinh nghiệm ở phần lớn các quốc gia có nhà máy điện hạt nhân, hai cơ quan này nên là riêng biệt và hơn nữa điều này cũng phù hợp với khuyến cáo của Tổ chức Năng lượng nguyên tử quốc tế.

Địa điểm lưu giữ: Cần địa phương ủng hộ

Có nhiều ĐB góp ý về địa điểm kho lưu giữ chất thải phóng xạ, địa điểm chôn cất chất thải phóng xạ,... chỉ cần có sự phê duyệt của Bộ Xây dựng là chưa đủ। Các ĐB này đề nghị cần phải bổ sung quy định về sự tham gia quy hoạch của chính quyền địa phương thì việc sử dụng đất xây dựng kho lưu giữ và địa điểm chôn cất chất thải phóng xạ mới thuận lợi, khả thi.


Ủy ban thường vụ Quốc hội sau khi nghiên cứu, nhận thấy ý kiến đó là xác đáng, việc phê duyệt địa điểm kho lưu giữ chất thải phóng xạ, địa điểm chôn cất chất thải phóng xạ phải tuân theo quy định của Luật này và Luật Bảo vệ môi trường.

Theo đó, Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh lập quy hoạch tổng thể quốc gia về thu gom, xử lý, chôn lấp chất thải nguy hại và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm bố trí mặt bằng xây dựng khu chôn lấp chất thải nguy hại theo quy hoạch đã được phê duyệt.

Cũng theo báo cáo giải trình, nguồn nhân lực để phát triển điện hạt nhân bao gồm nhân lực cho chương trình điện hạt nhân và nhân lực vận hành nhà máy điện hạt nhân, sự kiến sẽ được đưa vào vận hành trong năm 2020 cần được đầu tư mạnh. Nguồn nhân lực cần phải do Nhà nước chịu trách nhiệm đào tạo để đảm bảo về chất lượng cho đội ngũ nhân lực vận hành và phát triển nhà máy điện hạt nhân.


Source: vtc.vn
Read full post...

Việt Nam đủ nhiên liệu để phát triển điện hạt nhân

23/05/2008
Tiến sĩ Nguyễn Quang Hưng, Liên đoàn trưởng Liên đoàn Địa chất Xạ hiếm đã khẳng định điều này và cho biết : vùng mỏ urani trong cát kết ở khu vực miền Trung khả năng có trữ lượng lớn, điều này có ý nghĩa rất quan trọng cho việc phát triển nhà máy điện hạt nhân.

Thực hiện Chiến lược ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, trong thời gian qua Bộ Tài nguyên và Môi trường hoàn thành Đề án thăm dò quặng urani cho nhà máy điện hạt nhân.

Cục trưởng Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam Trần Xuân Hường cho biết: Việt Nam có tiềm năng trung bình trên thế giới về quặng urani, có đủ khả năng đáp ứng cho phát triển điện hạt nhân của đất nước.

Kết quả điều tra của ngành địa chất thời gian qua cho thấy quặng urani ở nước ta tồn tại trong nhiều cấu trúc địa chất, phân bố chủ yếu ở Tây Bắc và Trung bộ, trong đó có triển vọng nhất là quặng urani trong cát kết ở miền Trung.

Các khu mỏ ở khu vực này phân bố gần nhau, cách xa dân cư, thuận lợi cho việc bảo vệ môi trường. Điều kiện giao thông tương đối thuận lợi, gần đường điện 500 KV.

Điều quan trọng là theo những thử nghiệm ban đầu, quặng urani trong cát kết ở đây có thể thu hồi bằng các phương pháp hòa tách khuấy trộn thông thường, có hiệu suất thu hồi cao. Hàm lượng, trữ lượng các mỏ đạt mức trung bình như các mỏ cùng loại trên thế giới. Theo xác định sơ bộ, các mỏ này có thể khai thác được bằng phương pháp lộ thiên kết hợp hầm lò.

Tuy vậy, đây là một đề án có quy mô lớn và phức tạp, cần phải xác định đầy đủ các điều kiện địa chất thủy văn, địa chất công trình làm cơ sở phục vụ công tác lập báo cáo đầu tư; thu thập, quan trắc số liệu về môi trường, kinh tế - xã hội để lập báo cáo đánh giá tác động môi trường của hoạt động khai thác và báo cáo đầu tư khai thác mỏ.
Source: TTXVN
Read full post...

Xây dựng hai nhà máy điện hạt nhân tại Ninh Thuận

21/05/2008
Thông tin trên được Tập đoàn Điện lực VN (EVN) xác nhận tại hội thảo "Sự chấp thuận của công chúng đối với các cơ sở hạt nhân" do EVN và Tập đoàn Điện lực Pháp (EDF) tổ chức ngày 20/5 ở Ninh Thuận.

Theo EVN, căn cứ các kết quả nghiên cứu, xã Phước Dinh (Ninh Phước) và Vĩnh Hải (Ninh Hải) được chọn xây dựng nhà máy điện hạt nhân với công suất thiết kế 2.000MW/nhà máy.

Theo ông Trương Minh Tuấn - trưởng ban chuẩn bị đầu tư dự án điện hạt nhân và năng lượng tái tạo (thuộc EVN), sắp tới một chương trình truyền thông sẽ được xúc tiến sâu rộng tại Ninh Thuận, đặc biệt là các địa phương thuộc vùng dự án nhà máy điện hạt nhân, để tìm sự đồng thuận cao nhất từ công chúng.
Source: tuoitre
Read full post...

Thế kỷ 21: Thời kỳ phục hưng điện hạt nhân

17/05/2008
Thế kỷ 21 là thời kỳ phục hưng của điện hạt nhân, Viện trưởng Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam Vương Hữu Tấn nói về tình hình phát triển điện hạt nhân ở VN.

Theo Viện trưởng Tấn, để đảm bảo nhu cầu năng lượng ngày càng lớn, VN cần đa dạng hoá các nguồn cung ứng năng lượng. Một trong những nguồn năng lượng mà Chính phủ Việt Nam đang quan tâm là năng lượng nguyên tử.

Nhân triển lãm quốc tế điện hạt nhân 2008 tại Hà Nội, Viện trưởng Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam Vương Hữu Tấn đã có cuộc trao đổi với phóng viên VietNamNet xung quanh vấn đề này.

Xây dựng 2 nhà máy điện hạt nhân VN phải đầu tư 8 tỷ USD

Thưa ông, được biết Viện Năng lượng Nguyên tử VN có tham gia xây dựng bộ Luật Năng lượng Nguyên tử QH sắp thông qua trong kỳ họp này, xin ông cho biết những điểm chính?


Viện trưởng Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam Vương Hữu Tấn: Luật Năng lượng Nguyên tử đề cập đến tất cả các hoạt động, không chỉ là nhà máy điện hạt nhân, mà cả ứng dụng bức xạ được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực phục vụ cuộc sống như: nông nghiệp, sinh học, công nghiệp, xây dựng, giao thông, y tế, quản lý an toàn bức xạ... Khi xây dựng luật này, quan trọng nhất là chúng tôi tham khảo tài liệu hướng dẫn luật của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế và tham khảo luật của một số nước có điện hạt nhân và không có điện hạt nhân ví dụ như Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Pháp, Nga.

Thời gian làm dự thảo bắt đầu từ năm 2003. Trong dự thảo luật này có một chương rất quan trọng là chương phát triển năng lượng nguyên tử trong đó có đề cập đến Nhà nước phải có chương trình đào tạo nguồn nhân lực, chương trình nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ.

Hiện, chúng tôi đang đề xuất thành lập trung tâm đào tạo, theo kinh nghiệm các nước Viện Năng lượng Nguyên tử phải có một trung tâm đào tạo. Mặc dù đặt ở Viện Năng lượng Nguyên tử nhưng lại mang tính chất đào tạo của quốc gia.

Chính phủ vừa quyết định xây dựng hai nhà máy điện hạt nhân với công suất 4.000MW, xin ông cho biết đề án đang ở giai đoạn nào?

- Việt Nam sẽ xây 2 nhà máy, một ở xã Phước Dinh, một ở xã Vĩnh Hải tỉnh Ninh Thuận. Công suất ban đầu khoảng 4.000MW (chiếm 7-8% tổng sản lượng điện). Chúng tôi đã hoàn thành dự án tiền khả thi và trình Chính phủ xem xét. Sau khi Chính phủ có ý kiến chỉ đạo, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) sẽ hoàn thiện và trình trình CP và Quốc hội phê duyệt. Dự kiến đến năm 2020, nhà máy điện hạt nhân đầu tiên của Việt Nam sẽ đi vào vận hành và phát điện.

Mức đầu tư hiện nay bình quân khoảng 2.000 USD/KW công suất, để xây dựng 2 nhà máy điện hạt nhân VN phải đầu tư 8 tỷ USD. Vấn đề công nghệ đã được các chuyên gia nghiên cứu, đánh giá nhưng chưa có quyết định chọn công nghệ của nước nào. Đến năm 2040, dự kiến điện hạt nhân sẽ chiếm khoảng từ 25-30%, do vậy VN sẽ xây dựng và phát triển thêm nhiều nhà máy điện hạt nhân, không chỉ dừng lại ở hai nhà máy này.

Việt Nam còn 13 năm cho sự chuẩn bị các bước. Theo kinh nghiệm của các nước, Việt Nam hoàn toàn có thể thực hiện được mục tiêu lộ trình đã đề ra.

Cần 800 nhân lực cho 2 nhà máy điện hạt nhân


Một trong những vấn đề quan trọng đặt ra hiện nay là đào tạo nguồn nhân lực, đánh giá của ông về khâu đào tạo, nguồn nhân lực hiện có của Việt Nam cho lĩnh vực này?

- Lực lượng chính còn lại ở Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam khoảng hơn 700 người. Thời gian qua, do xu hướng của thế giới giảm không đào tạo điện hạt nhân, nên ở nước ta cũng vậy. Hiện có 4 trường đào tạo điện hạt nhân là Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG Hà Nội, Đại học Khoa học Tự nhiên TP.HCM, Đại học Đà Lạt. Mặc dù vậy, nhưng vì nhu cầu không có nên việc đào tạo cũng chung chung, không đi đúng chuyên môn.

Thưa ông, hai nhà máy điện hạt nhân đi vào vận hành cần bao nhiêu nhân lực?

- Để vận hành một nhà máy điện hạt nhân 2.000MW cần 400 nhân lực, 2 nhà máy điện hạt nhân cần khoảng 800 nhân lực làm việc trực tiếp. Trong đó, chuyên gia về điện hạt nhân chỉ chiếm 10% (80 người cả hai nhà máy), con số này không phải là nhiều và trong đề án chúng tôi đã xây dựng kế hoạch bắt đầu đào tạo. Mỗi năm, Viện Năng lượng Nguyên tử tuyển 30-40 người, do đặc thù VN chưa có trường ĐH nào đào tạo về chuyên ngành điện hạt nhân nên chúng tôi tuyển các sinh viên giỏi từ các ngành như cơ khí, điện tử, vật lý... những chuyên ngành có liên quan đến năng lượng nguyên tử sau đó chúng tôi đào tạo thêm và cử đi học ở nước ngoài. Số nhân lực chủ yếu còn lại là của Tập đoàn điện lực. Hiện EVN có 70.000 nhân lực có thể làm được việc này và trong mấy năm qua EVN đã tích cực tuyển sinh, đào tạo nguồn nhân lực này.

Cho nên tôi cho rằng nhân lực cho hai nhà máy điện hạt nhân không phải là vấn đề quan trọng.

Theo ông vấn đề quan trọng nhất hiện nay là gì?

- Vấn đề quan trọng nhất hiện nay là cần sự quyết tâm cao của các nhà lãnh đạo và phân rõ trách nhiệm của các bộ, ngành thì mới có thể thực hiện đồng bộ theo lộ trình được.
Hiện nay, vấn đề chỉ đạo chưa được tập trung lắm, cần có người đứng đầu lãnh đạo và thành lập ban chỉ đạo nhà nước về điện hạt nhân. Đây là quy định của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế.

Hiện nay, vai trò nhạc trưởng được Chính phủ giao cho Bộ KH&CN thực hiện chiến lược của Thủ tướng, trong khi chiến lược có 2-3 đề án và có liên quan đến Bộ Công thương và các bộ ngành khác nữa. Nếu đề án xây dựng nhà máy điện hạt nhân để ở cấp bộ thì không đủ tầm cỡ điều hành. Phải có một ban chỉ đạo và ít nhất là có một phó thủ tướng làm trưởng ban kiểm tra, đôn đốc. Trong báo cáo trình Thủ tướng chúng tôi cũng đề xuất vấn đề này.

Thế kỷ 21: Thời kỳ phục hưng điện hạt nhân

Thưa ông, đây có phải thời điểm thích hợp để Việt Nam phát triển điện hạt nhân không?


- Thế kỷ 21 là thời kỳ phục hưng điện hạt nhân rất mạnh. Hiện nay trên thế giới, rất nhiều nước quan tâm đến phát triển điện hạt nhân, nếu Việt Nam không nắm bắt được, chúng ta sẽ bỏ lỡ cơ hội. Trên thế giới có khoảng 30 nước đang phát triển quan tâm đến điện hạt nhân, nhờ Cơ quan Năng lượng Nguyên tử (IAEA) giúp đỡ. Trong khi nhiều nước cùng muốn phát triển điện hạt nhân, mà những nước có khả năng cung cấp thì hạn chế do vậy cần nắm được cơ hội này để tranh thủ lợi thế thời điểm.

Lịch sử phát triển điện hạt nhân bắt đầu từ những năm 50. Năm 54 nhà máy điện hạt nhân đầu tiên đã đi vào vận hành ở Nga. Những năm 70, sau khủng hoảng dầu mỏ lần thứ nhất, tốc độ phát triển điện hạt nhân lên nhanh gấp 2 lần từ chiếm 9% cung ứng năng lượng lên 17%. Sau 2 sự cố lớn trên thế giới ở Mỹ năm 1979 và ở Nga (Chernobyl) năm 1986, niềm tin của công chúng về điện hạt nhân bị suy giảm. Từ đó các nước chỉ cải tiến không xây dựng thêm. Tuy nhiên, bắt đầu thiên niên kỷ này, vì nhu cầu năng lượng tăng cao, công nghệ điện hạt nhân được cải tiến mạnh mẽ. Thế giới bắt đầu quay trở lại phát triển điện hạt nhân.

Phát triển điện hạt nhân xem như còn rất mới mẻ ở VN, Xin ông cho biết đề án có kế hoạch thuyết phục người dân Ninh Thuận - địa điểm xây dựng hai nhà máy điện hạt nhân như thế nào?

- Trăm nghe không bằng mắt thấy, chúng tôi có mời các nước tham gia triển lãm quốc tế điện hạt nhân 2008 báo cáo trực tiếp với người dân về vấn đề này. Tuần sau sẽ có một đoàn chuyên gia của Pháp đến Ninh Thuận, địa điểm dự kiến xây dựng hai nhà máy điện hạt nhân này báo cáo.

Đối với vấn đề xử lý nguồn chất thải từ các nhà máy điện hạt nhân?

- Về chất thải, nhà máy điện hạt nhân có hai dạng: Dạng thải phóng xạ thấp (phát sinh từ các phin lọc của lò phản ứng, từ các dụng cụ thay ra...), có thời gian bán rã ngắn, dài nhất 30 năm. Để xử lý, người ta sẽ bê tông hóa chúng, đóng vào các container nhỏ rồi chôn xuống đất. Sau một thời gian, chúng sẽ trở lại trạng thái an toàn. Một lò 1.000MW mỗi năm sẽ thải ra khoảng 800 tấn chất thải loại này, cô đặc lại còn khoảng 10 mét khối. Đấy không là vấn đề khó khăn. Loại chất thải đáng lo ngại nhất là nhiên liệu đã cháy. Một lò 1.000MW thải ra khoảng 30 tấn mỗi năm. Chúng có cường độ phóng xạ cao, và thời gian bán rã rất lâu. Song, từ khi nhiên liệu được thải ra cho đến khi cần xử lý phải mất 40-50 năm. Như vậy, nếu Việt Nam vận hành nhà máy điện hạt nhân vào năm 2020, thì phải đến năm 2070, chúng ta mới cần tính đến việc này. Trong thời gian đó, chắc chắn công nghệ xử lý của thế giới đã đi rất xa, và có thể áp dụng cho Việt Nam.

- Xin cảm ơn ông!

Source: VNN
Read full post...

Tại sao phải thận trọng với điện hạt nhân?

16/05/2008
Nhân dịp Việt Nam tổ chức Triển lãm điện hạt nhân với chủ đề: Hướng tới nhà máy điện hạt nhân đầu tiên của Việt Nam, chúng tôi xin đăng tải ý kiến của Tiến sỹ Trần Văn Bình, nhà khoa học Việt Nam tại Đức, về vấn đề điện hạt nhân để độc giả cùng tham khảo.

Kể từ ngày thành lập cách đây hơn 30 năm, tổ chức Greenpeace luôn luôn đấu tranh, phản đối các hoạt động, chính sách của những khuynh hướng chính trị nào có ý đồ sử dụng nhiên liệu hạt nhân, cực lực phản đối việc xây dựng mới các nhà máy điện hạt nhân; họ là những người dân bình thường của nhiều hội đoàn đến từ nhiều quốc gia, ngoài lòng yêu chuộng hòa bình, căm thù chiến tranh, còn lòng yêu thiên nhiên, trân trọng môi trường sống của con người mà họ cảm thấy phải có trách nhiệm với đất đai, với sông nước, thiên nhiên môi trường mà họ đang sống.

Như học giả Saint-Exupe´ry đã viết: “Chúng ta không thừa hưởng đất đai của tổ tiên, mà chúng ta chỉ mượn tạm của con cháu! ” Có lẽ nhân đây cũng nên lướt nhìn lại hai tai nạn của hai nhà máy điện hạt nhân của thế kỷ qua, mà cho đến nay khi nghe đến tên, thì mức độ kinh hoàng, sự sợ hãi của con người có lẽ chỉ thua hai từ Hiroshima và Nagasaki.

Biến cố Chernobyl: Vào một ngày cuối tháng tư năm 1986, lò số 4 của nhà máy điện hạt nhân Chernobyl có công suất 6.000 Megawatt, nằm gần thành phố Pripyat, thuộc Ukraina nước CHLB Xô viết trước đây, bị một tai nạn khủng khiếp. Tai nạn được xếp ở cấp 7, cấp thang cao nhất được qui định (theo INES-International Nuclear Event Scale), tạo sức nổ hơi rất mạnh, làm nóc nhà bay và bị cháy lớn, sinh phát tán phóng xạ ra ngoài. Nguyên nhân chính gây ra tai nạn này là do quan niệm kỹ thuật, thiết kế thiếu bảo đảm và lỗi của công nhân vận hành. Sau đó khoảng gần 5.000 tấn cát, đất sét, chì. .. được đổ xuống để làm giảm chất phóng xạ (công việc này có tác dụng như tạo ra bộ phận lọc).

Tiếp theo sau đó người ta dùng thép và bê- tông để che lắp nhà máy. Kinh phí ban đầu cho việc cứu chữa này đã lên quá 550 triệu USD. Nhưng công trình này tiếp tục bị rạn nứt. Hàng trăm, hàng ngàn tấn máy móc, thiết bị, dụng cụ, nhiên liệu phóng xạ, có lẽ sẽ được chôn vùi mãi mãi ở nơi đây. Lúc đầu, vì sợ dân chúng hoang mang, thế giới và nước ngoài trách móc nên những con số chính xác thiệt hại về con người không được công bố.

Nhưng cho đến nay đã có hơn vài ngàn trẻ em bị mổ tuyến giáp trạng, người mắc bệnh bạch huyết, ung thư và dị tật bẩm sinh; hậu quả tàn khốc của biến cố, tai nạn nhà máy điện hạt nhân vẫn âm thầm tiếp diễn. Một tài liệu được công bố gần đây của tổ chức Greenpeace đã cho biết: Chỉ riêng với con số khoảng 600.000 người lính được lệnh đến Chernobyl để quét dọn, làm sạch chất phóng xạ, rất nhiều người đã bị chết, con số chính xác là bao nhiêu vẫn không được công bố rõ ràng.

Biến cố Harrisburg: Tháng 3-1979 một sự cố lớn đã xảy ra ở lò Three Mile Island cách không xa thành phố Harrisburg lắm, vì thế mà biến cố mang cái tên này. Tim lò nhà máy điện hạt nhân này (với công suất 900 Megawatt) bị thiệt hại, nhiệt độ tăng vọt lên làm phát tán phóng xạ. Nguyên nhân chính của tai nạn này là do lỗi ở công nhân vận hành, không thực hiện đúng các qui cách hướng dẫn, nôm na là do sự bất cẩn của con người!

Một biên khảo mới nhất của Viện Môi trường ở thành phố Munich, CHLB Đức đã công bố: Khu vực chung quanh các nhà máy điện hạt nhân thuộc tiểu bang Bayern còn đang hoạt động, người ta đã phát hiện và thống kê số trẻ em mắc bệnh ung thư nhiều hơn so với số trẻ em cư ngụ ở vùng khác, nơi mà không có nhà máy điện hạt nhân.

Kết quả khảo cứu này cho thấy số trẻ em sinh ra và lớn lên ở khu vực chung quanh 3 nhà máy điện hạt nhân Grundremmingen, Isar và Grafenheinfeld (3 trong số mười chín 19 nhà máy điện hạt nhân tại Đức còn được phép hoạt động cho đến hết năm 2020) bị mắc bệnh ung thư 30%, nhiều hơn so với con số bình thường. Cơ quan Liên bang Bảo vệ Phòng chống nhiễm Phóng xạ của CHLB Đức đã có nhận định: Nguyên nhân gây các bệnh ung thư là do các trẻ em này bị nhiễm phóng xạ từ lúc sinh ra, đã sống và lớn lên ở gần các nhà máy điện hạt nhân.

Thời gian gần đây, được biết lời tuyên bố của người lãnh đạo Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam: Nhà máy điện hạt nhân đầu tiên của nước ta, nếu không có gì trở ngại, sẽ vận hành vào năm 2017 – 2018 (thay vì dự định vào năm 2020). Nhà máy sẽ có 2 hoặc 3 lò với công suất của mỗi lò là 600 Megawatt. Chỉ nhìn về khía cạnh kinh tế mà thôi, thì so với kinh phí đầu tư cho một nhà máy thủy điện như Sơn La (với công suất 2.400 Megawatt, khoảng 2,5 tỉ USD, gần như tương đương với giá thành của một nhà máy điện hạt nhân) thì đã thấy giá thành của một KWh của nhà máy điện hạt nhân này là không kinh tế rồi! !! Ấy là chưa nói đến yếu tố tác hại đối với môi trường sinh sống con người, lời giải cho bài toán xử lý chất thải và nếu có biến cố, tai nạn xảy ra, thì hậu quả không thề lường hết được! !
Source: daidoanket
Read full post...

Từ 2009, Việt Nam đào tạo nhân lực điện hạt nhân

16/05/2008
Bắt đầu từ năm 2009, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) sẽ tuyển sinh chuyên ngành điện hạt nhân. Đề án này hiện đang được Bộ GD&ĐT xây dựng đề án và mở các khoa đào tạo tại một số trường.

Hiện Tập đoàn Điện lực Việt Nam đang đang hoàn thành Dự thảo báo cáo đầu tư Dự án Nhà máy Điện hạt nhân Ninh thuận để trình Chính phủ phê duyệt.

Theo dự báo của Bộ Công thương, nhu cầu điện sản xuất ở Việt Nam, theo phương án cơ sở, là 294 tỷ kWh vào năm 2020 và 562 tỷ kWh vào năm 2030; Trong khi đó, khả năng cung cấp nhiên liệu từ các nguồn năng lượng sơ cấp của Việt Nam cho sản xuất điện năng chỉ đáp ứng được khoảng 230 tỷ kWh vào năm 2020 và 293 tỷ kWh vào năm 2030. Trước tình hình này, điện hạt nhân đang là sự lựa chọn tối ưu của Việt Nam.

Dự kiến, Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận với tổng vốn đầu tư là 4,5 tỷ USD gồm 2 nhà máy điện hạt nhân. Nhà máy điện Ninh Thuận I được đặt ở xã Phước Dinh, huyện Ninh Phước có 2 tổ máy mỗi tổ máy công suất 1000 MW; nhà máy Ninh Thuận II được đặt ở xã Vĩnh Hải huyện Ninh Hải cũng có 2 tổ máy công suất 1000 MW. Như vậy với 4 tổ máy này sẽ có tổng công suất là 4000 MW. Tuổi thọ của 2 nhà máy này là 60 năm, đặc biệt nước làm mát dùng cho 2 nhà máy này là nước biển. Vì vậy, 2 nhà máy này được chọn đặt tại Ninh thuận một tỉnh ven biển để tận dụng nguồn nước dồi dào từ biển.

Việt Nam đang thiết lập lộ trình xây dựng hai nhà máy điện hạt nhân mà theo đó, năm 2020, sẽ đưa vào vận hành tổ máy I, còn tổ máy II sẽ tiếp tục được vận hành vào năm 2021. Như vậy, năm 2020, lần đầu tiên người dân Việt Nam sẽ được dùng điện hạt nhân. Với một tổ máy được vận hành vào năm 2020 sẽ cung cấp 1% tổng lượng điện tiêu thụ trong cả nước. Sau đó các tổ máy tiếp theo sẽ đi vào hoạt động thì lượng điện mà 2 nhà máy này cung cấp sẽ tăng dần lên chiếm 6% tổng lượng điện cả nước vào năm 2030 và đến năm 2050 sẽ chiếm 20-25% tổng lượng điện cả nước.

Ông Phan Minh Tuấn, Trưởng ban chuẩn bị đầu tư dự án Điện hạt nhân và năng lượng tái tạo (Tập đoàn Điện lực Việt Nam) cho biết nhiêu liệu sử dụng cho 2 nhà máy này ban đầu sẽ được nhập khẩu từ nước ngoài. Nhưng dần dần sẽ tự lực nhiên liệu bằng cách khai thác và làm giàu Urani trong nước.

Vẫn theo ông Tuấn, giá thành của điện hạt nhân mà 2 nhà máy này cung cấp sẽ bằng hoặc cao hơn một chút so với nhiệt điện được sản xuất tại nhà máy đặt ngay tại vùng nhiên liệu. Nhưng rẻ hơn so với điện sản xuất từ các nhiên liệu khác mà chúng ta đang sử dụng khoảng từ 10-20%.

Để chuẩn bị cho kế hoạch trên, vấn đề đào tạo nhân lực cho ngành điện hạt nhân đang là vấn đề bức thiết.

Bắt đầu từ năm 2009, Bộ GD&ĐT sẽ tuyển sinh chuyên ngành điện hạt nhân. Đề án này hiện đang được Bộ GD&ĐT xây dựng đề án và mở các khoa đào tạo tại một số trường. Cụ thể mở ở các trường nào là do quyết định của Bộ GD&ĐT. Tuy nhiên, đào tạo chuyên ngành điện hạt nhân không chỉ tập chung ở một trường mà ở nhiều trường khác nhau ví dụ như Hàn Quốc có khoảng 20 - 30 trường ĐH đào tạo về chuyên ngành này. Ở VN, các trường ĐH chỉ đào tạo mang tính ban đầu, sau đó sẽ được đào tạo qua công việc và tiếp tục được đào tạo tại Trung tâm đào tạo chuyên sâu của Viện Năng lượng Nguyên tử VN. Chậm nhất là 31/12/08 Thủ tướng CP sẽ phê duyệt hết các đề án này.

Ngoài ra, Pháp cũng giúp đỡ Việt Nam một chương trình đào tạo. Nhật Bản cũng đưa ra kế hoạch đào tạo để gắn với việc vận hành hai tổ máy của nhà máy điện hạt nhân đầu tiên... Bộ KHCN cũng đã xây dựng chương trình đào tạo cán bộ nghiên cứu, quản lý, cơ quan pháp quy về năng lượng nguyên tử nói chung và điện hạt nhân nói riêng.

Source: VNN
Read full post...

Nhiều nước chào bán công nghệ điện hạt nhân cho Việt Nam

15/05/2008
Ngoài 4 nước Nga, Pháp, Hàn Quốc, Nhật Bản tại Triển lãm quốc tế điện hạt nhân 2008 tại Hà Nội vào ngày 14/5, còn có sự tham gia của Trung Quốc. Trung Quốc chào bán công nghệ với giá thành rẻ hơn so với các nước khác.

Triển lãm quốc tế Điện hạt nhân 2008 và các hội thảo bắt đầu từ 14 -17/05 tại Cung Văn hóa hữu nghị, 91, Trần Hưng Đạo, Hà Nội.

Khác với hai cuộc triển lãm quốc tế điện hạt nhân 2004 và 2006, triển lãm lần này đã có thêm Tập đoàn Điện hạt nhân Quảng Đông, TQ chào bán với giá thành cạnh tranh rẻ hơn 2/3 so với công nghệ của các nước khác. Trao đổi với phóng viên VietNamNet, ông Wang Yunguang - Phó Tổng GĐ Tập đoàn chia sẻ mong muốn được tham gia xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên của VN.

Với chủ đề "Hướng đến nhà máy điện hạt nhân đầu tiên ở Việt Nam", mục đích chính của triển lãm và các hội thảo điện hạt nhân lần này là giới thiệu về các hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng quốc gia cho phát triển điện hạt nhân và công tác chuẩn bị cho một dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân.

Dự kiến 2 nhà máy điện hạt nhân đầu tiên tại Việt Nam sẽ đặt tại xã Phước Dinh, huyện Ninh Phước và xã Vĩnh Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận.

Ông Vương Hữu Tấn - Viện trưởng Viện Năng lượng Nguyên tử VN cho biết dự án điện hạt nhân đầu tiên đang được các bộ, ngành triển khai tích cực trên cơ sở các đề án trong kế hoạch tổng thể. Có 2 loại hoạt động chuẩn bị được triển khai đồng thời là chuẩn bị dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên do Bộ Công thương chủ trì và xây dưng cơ sở hạ tầng cần thiết cho phát triển điện hạt nhân của quốc gia do Bộ KH&CN chủ trì phối hợp với các bộ ngành thực hiện.

Ông Tấn cho rằng các cơ sở hạ tầng sẽ là một đảm bảo của CP về thể chế, luật pháp, quản lý, KH&CN, công nghiệp và nhân sự cho chương trình điện hạt nhân trong suốt thời gian thực hiện. Việc quyết định một chương trình điện hạt nhân có hàm ý một cam kết duy trì các cơ sở hạ tầng quốc gia bền vững ít nhất 100 năm kể từ khi vận hành cho đến khi tháo dỡ, chôn cất chất thải.

Bộ trưởng Bộ KH&CN Hoàng Văn Phong nhấn mạnh, điện năng là một lĩnh vực quan trọng quyết định sự phát triển và tăng trưởng kinh tế của quốc gia, năng lượng hạt nhân là một loại năng lượng sạch đóng góp ngày càng to lớn và sự phát triển kinh tế của loài người. Trong những năm qua cùng với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, nhu cầu về điện năng liên tục tăng và tiếp tục được duy trì với mức độ tăng cao trong nhiều năm và nhiều thế kỷ tới.

Trao đổi bên lề triển lãm, về phản ứng của người dân nơi xây dưng 2 nhà máy điện hạt nhân, Bộ trưởng Hoàng Văn Phong nói: "Bất kỳ nước nào khi xây nhà máy điện hạt nhân cũng gặp phản ứng tự nhiên từ người dân, vì việc này luôn tiềm ẩn nguy cơ. Một phần mục đích của triển lãm này là để thông tin cho mọi người hiểu rằng với quy trình công nghệ hiện nay, chúng ta có thể chế ngự tối đa những khả năng xấu đó, và xây dựng được nhà máy điện hạt nhân an toàn như bao nhiêu nước khác".

Hàng trăm vị khách đã đến tham quan cuộc với sự có mặt của Phó chủ tịch QH Nguyễn Đức Kiên, Chủ tịch Ủy ban KHCN&MT QH Đặng Vũ Minh và đoàn ĐB QH tỉnh Ninh Thuận - nơi xây dựng hai nhà máy điện hạt nhân đầu tiên.
Source: VNN
Read full post...

Điện hạt nhân – Kẻ cổ vũ, người phản đối

15/05/2008
Quốc hội Đức đã thông qua đề nghị sửa đổi Luật Năng lượng Hạt nhân, theo đó, quốc gia này sẽ cấm xây dựng và vận hành các nhà máy điện hạt nhân mới, tiến tới loại bỏ các nhà máy điện hạt nhân. Trong khi đó, nhiều quốc gia khác vẫn tích cực xây dựng thêm những nhà máy điện hạt nhân mới.

Sau khi Quốc hội Đức thông qua việc sửa đổi Luật Năng lượng Hạt nhân không lâu, vào cuối năm 2003, nước Đức đã bắt đầu công cuộc đưa điện hạt nhân xuống... nghĩa địa bằng việc khai tử nhà máy điện hạt nhân đầu tiên của mình – nhà máy điện hạt nhân Stade.

Dự kiến trong vòng 20 năm nữa, Đức sẽ xóa sổ hoàn toàn 19 nhà máy điện hạt nhân, cho dù hiện tại, nó vẫn là nguồn cung cấp năng lượng đáng kể cho đất nước này. Nhà máy điện hạt nhân Stade được đưa vào hoạt động từ tháng 1-1972 và là nhà máy thứ hai trong tổng số 19 nhà máy điện hạt nhân được đưa vào hoạt động ở Đức. Trong gần 32 năm hoạt động, nhà máy này đã sản xuất được 152 tỷ kW điện.

Công cuộc tháo dỡ nhà máy điện hạt nhân này khá hao tiền tốn của, người Đức sẽ phải tháo dỡ nó trong 10 năm, và tổng chi phí lên tới 500 triệu euro. Mặc dù vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, trong đó, có ý kiến cho rằng Đức sẽ không tìm đủ nguồn năng lượng thay thế năng lượng hạt nhân (chiếm khoảng 25% tổng năng lượng điện), nhưng việc tháo dỡ các nhà máy điện nguyên tử, đồng thời không xây thêm mới, vẫn là chính sách của quốc gia này.

Cùng chung quan điểm với Đức, các nước Bỉ, Thụy Điển đều đã phê chuẩn việc giới hạn hoạt động của các lò phản ứng hạt nhân, tiến tới loại bỏ.

Nhiều quốc gia phản đối xây dựng các nhà máy điện hạt nhân, thứ nhất là do lo sợ xảy ra các sự cố. Vì nguyên liệu sử dụng cho các nhà máy điện hạt nhân, là những chất phóng xạ cực kỳ nguy hiểm. Ngoài những hậu quả trực tiếp, khi xảy ra sự cố, nó còn gây hậu quả lâu dài đến cuộc sống con người. Hầu như ai cũng biết sự cố xảy ra tại nhà máy điện hạt nhân Chernobyl.

Người ta đã phải phủ một lớp bê tông dày lên những lò phản ứng ở trong lòng đất. Nhưng việc làm này bắt đầu trở nên vô tác dụng khi chất phóng xạ sắp rò rỉ qua lớp bê tông này. Điều đó khiến cho cả châu Âu lo lắng và họ đang tính toán giúp Ucraina một khoản tài chính lớn để nước này phủ lên những lò hạt nhân hỏng tại đây một lớp thép dày. Chưa bao giờ người ta công bố những con số thiệt hại do vụ nổ nhà máy này gây nên. Một phần vì điều này rất khó thống kê, ngoài những người chết trực tiếp trong vụ nổ, còn rất nhiều người chết dần chết mòn do nhiễm phóng xạ, cũng như con cháu đời sau họ vẫn còn phải chịu đựng. Tuy nhiên, có thể hình dung phần nào hậu quả của nó qua vụ nổ tạo ra những đám mây phóng xạ, và những đám mây này bay sang cả những quốc gia lân cận và reo rắc hậu quả.

Một quốc gia tiên tiến như Nhật Bản cũng từng gặp những bê bối về năng lượng hạt nhân. Từ cuối thập kỷ 1980 TEPCO – tập đoàn năng lượng lớn nhất Nhật Bản đã phát hiện một số lỗi trong hoạt động của lò phản ứng, nhưng họ đã cố tình giấu giếm. Đến khi bị phát giác, Chủ tịch TEPCO và một số cộng sự phải từ chức. Đến tháng 4-2003 tất cả 17 lò phản ứng của TEPCO với tổng công suất điện hơn 16.000 MW (gấp 8 lần Nhà máy thủy điện Hòa Bình) buộc phải đóng cửa. Vụ bê bối này khiến dân chúng Nhật bắt đầu mất niềm tin vào điện hạt nhân. Tất nhiên, đây không phải là bê bối đầu tiên của Nhật Bản. Tương tự, sự cố cũng từng xảy ra ở những quốc gia phát triển nhất thế giới như Mỹ, Đức...

Sự cố xảy ra ở những nước tiên tiến trên làm cho công chúng chống đối điện hạt nhân ngày càng tăng. Một số nước xây xong hoặc gần xong nhà máy điện hạt nhân vẫn phải đóng cửa, không đưa vào hoạt động vì sợ không an toàn. Nước láng giềng Philippin là một ví dụ, họ sẵn sàng vứt không mấy tỉ đô la xây dựng nhà máy (đã xong 90%) chứ không đưa vào sử dụng.

Người ta phản đối điện hạt nhân, còn vì các nhà máy điện hạt nhân tạo ra chất thải phóng xạ chết người. Trước đây người ta vẫn xử lý bằng cách chôn sâu trong lòng đất. Tuy nhiên, những nhà bảo vệ môi trường cho rằng, chúng sẽ gây hậu quả cho con cháu mai sau. Vì chất thải hạt nhân có thể gây tác hại trong hàng chục nghìn năm sau.

Hiện thế giới có gần 450 lò phản ứng hạt nhân. Trong khi một số quốc gia châu Âu tính chuyện loại bỏ các lò phản ứng hạt nhân thì châu Á lại tích cực phát triển. Những nước xây dựng nhiều nhà máy điện hạt nhân trong những năm gần đây là Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ và CHDCND Triều Tiên.

Các quốc gia tích cực xây dựng nhà máy điện hạt nhân cho rằng, đây là giải pháp rẻ tiền để giảm sức ép về năng lượng hóa thạch (dầu mỏ, than đá...) đang cạn kiệt (đây cũng là nguồn năng lượng gây hiệu ứng nhà kính). Tuy nhiên, những quốc gia phản đối điện hạt nhân cho rằng, có thể dùng năng lượng tái tạo như năng lượng gió, mặt trời để thay thế.

Vấn đề xây dựng nhà máy điện hạt nhân khiến châu Âu phân làm hai cực. Trong khi đầu tàu của kinh tế châu Âu, nước Đức quyết tâm nói không với điện hạt nhân, thì Pháp lại là nước ủng hộ, và họ còn là nước xuất khẩu công nghệ xây dựng nhà máy điện hạt nhân.

Còn nhớ cách đây không lâu, Philippe Jamet, Giám đốc bộ phận an toàn lắp đặt hạt nhân của IAEA (Cơ quan năng lượng nguyên tử thế giới), nói rằng các nước còn xa lạ hoặc đang làm quen với điện hạt nhân phải hết sức thận trọng, vì ta có thể học từ sai lầm đối với các lĩnh vực khác nhưng với điện hạt nhân thì không. Mỗi sai lầm gắn liền với mạng sống con người thuộc không chỉ một thế hệ.
Source: daidoanket
Read full post...

Cần ưu đãi cho địa phương xây nhà máy điện hạt nhân

14/05/2008
"Đây là luật chuẩn bị rất công phu với gần 100 điều, nội dung cụ thể, nhiều điều chỉnh với phạm vi rộng", ĐB Đinh Xuân Thảo (Kiên Giang) phát biểu tại phiên thảo luận sáng 13/5 về Dự án Luật Năng lượng nguyên tử.

Hầu hết ý kiến trên nghị trường đều thống nhất rằng tuy đây là một dự án luật rất khó, tính chuyên ngành cao nhưng cơ quan soạn thảo và đơn vị thẩm tra đều đã chuẩn bị kỹ lưỡng và công phu so với khá nhiều dự án luật khác.

Điện hạt nhân: một giải pháp kinh tế, an toàn

Các ĐB nhanh chóng thống nhất với hầu hết nội dung dự án luật và cho rằng đây sẽ là cơ sở pháp lý để ứng dụng năng lượng nguyên tử vào phát triển kinh tế xã hội. Trước mắt, điện hạt nhân sẽ là một giải pháp kinh tế, an toàn và là nguồn năng lượng sạch trong bối cảnh các nguồn năng lượng truyền thống đang cạn kiệt.

Bàn thảo nhiều nhất là cơ chế cho các địa phương sẽ xây nhà máy điện hạt nhân đầu tiên.

ĐB Võ Minh Thức (Phú Yên) trình bày, trước kia, Phú Yên cũng dự kiến tiếp sau Ninh Thuận, tỉnh này sẽ chọn một địa điểm xây nhà máy. Tuy đây mới chỉ là ý định nhưng địa phương đã "vấp" phải nhiều bức xúc của người dân.

Theo ông Thức, lo lắng trước tiên là về độ an toàn, sau đó là quyền lợi của nhân dân ở trong vùng xây nhà máy. "Đây là lợi ích thiết thực quốc gia nhưng khi thiệt hại xảy ra thì cục bộ địa phương bị ảnh hưởng trước", ông Thức nói.

Ông phân tích, tuy dự thảo Luật có nói đến việc sẽ quan tâm, chú trọng đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật, phát triển văn hóa, giáo dục cũng như một số vấn đề phúc lợi tại khu vực dự án, nhưng nếu nói vậy vẫn chưa cụ thể và chưa đủ sức thuyết phục người dân.


ĐB Bùi Thị Hòa (Đăk Nông) cũng chia sẻ thêm, với những địa bàn được chọn để xây nhà máy điện hạt nhân thì phải có những quy định rất rõ, cụ thể hơn để có chính sách đặc thù, chính sách ưu tiên.

Quan tâm nhất là vấn đề an toàn bức xạ

Đại diện cho Ninh Thuận, địa phương đầu tiên sẽ xây dựng nhà máy điện hạt nhân, ĐB Nguyễn Thị Mai giãi bày nỗi lo khác, "Cử tri lo lắng rằng khi địa phương có nhà máy điện hạt nhân, việc thu hút đầu tư và du lịch sẽ bị hạn chế, cũng như ảnh hưởng của phóng xạ đến môi trường sống. Đề nghị chính sách của Nhà nước đối với các địa phương có nhà máy điện hạt nhân cần quy định cụ thể hơn, địa phương phải được hưởng lợi từ chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, giao thông, văn hóa, khoa học và công nghệ phát triển".

Bà Mai cũng cũng yêu cầu Luật nên quy định phải có báo cáo thường xuyên việc kiểm tra sức khỏe cho cộng đồng dân cư sinh sống xung quanh và thường xuyên đánh giá tác động môi trường.

"Tham quan một số nhà máy điện hạt nhân ở Nhật, tôi quan tâm nhất là vấn đề an toàn bức xạ. Chúng tôi đã nhìn thấy một bức tranh tổng thể là nhà máy điện hạt nhân được xây dựng sát biển, cách nhà máy khoảng 500m là khu dân cư sống đông đúc với những công viên, cây xanh tươi tốt, có trung tâm sinh hoạt thể thao, văn hóa trên biển, gần đó có ngư dân đánh bắt cá. Họ cho biết, thường xuyên có chuyên gia đánh giá tác động môi trường như đo nhiệt độ nước, nồng độ muối, sự biến động của thủy, hải sản, đặc biệt là thường xuyên kiểm tra sức khỏe cho dân sống xung quanh", bà Mai kể lại.

ĐB Trịnh Thị Giới (Thanh Hóa) nói thêm: "Xây nhà máy điện hạt nhân là vấn đề nhạy cảm vì tâm lý của nhân dân và địa phương thường e ngại. Không phải chỗ nào cũng đặt được nhà máy điện hạt nhân và số lượng nhà máy cũng sẽ chưa nhiều vì vậy nên có chính sách đặc thù cho địa phương và người dân".

Dự kiến, Luật Năng lượng nguyên tử sẽ được thông qua vào ngày 3/6 tới.

Source: VNN
Read full post...

New Wave of Nuclear Plants Faces High Costs

May 12,2008
By REBECCA SMITH

A new generation of nuclear power plants is on the drawing boards in the U.S., but the projected cost is causing some sticker shock: $5 billion to $12 billion a plant, double to quadruple earlier rough estimates.

Nuclear power is regaining favor as an alternative to other sources of power generation, such as coal-fired plants, which have fallen out of favor because they are major polluters. But the high cost could lead to sharply higher electricity bills
for consumers and inevitably reignite debate about the nuclear industry's uitability to meet growing energy needs.

Nuclear plants haven't been built in meaningful numbers in the U.S. since the 1980s. Part of the cost escalation is bad luck. Plants are being proposed in a period of skyrocketing costs for commodities such as cement, steel and copper; amid a growing shortage of skilled labor; and against the backdrop of a shrunken supplier network for the industry.

The price escalation is sobering because the industry and regulators have worked hard to make development more efficient, in hopes of eliminating problems that in the past produced harrowing cost overruns. The Nuclear Regulatory Commission, for example, has created a streamlined licensing process to make timelier, more comprehensive decisions about proposals. Nuclear vendors have developed standardized designs for plants to reduce construction and operating costs. And utility executives, with years of operating experience behind them, are more astute
buyers.

Now, 104 nuclear reactors are operating in the U.S. Most are highly profitable but that was not the case until fairly recently. For the 75 units built between 1966 and 1986, the average cost was $3 billion or triple early estimates, according to the Congressional Budget Office. Many plants operate profitably now because they were sold to current operators for less than their actual cost.

The latest projections follow months of tough negotiations between utility companies and key suppliers, and suggest efforts to control costs are proving elusive. Estimates released in recent weeks by experienced nuclear operators -- NRG Energy Inc., Progress Energy Inc., Exelon Corp., Southern Co. and FPL Group Inc. -- "have
blown by our highest estimate" of costs computed just eight months ago, said Jim Hempstead, a senior credit officer at Moody's Investors Service credit-rating agency in New York.

Moody's worries that continued cost increases, even if partially offset by billions of dollars worth of federal subsidies, could weaken companies and expose consumers to high energy costs.

On May 7, Georgia Power Co., a unit of Atlanta-based Southern, said it expects to spend $6.4 billion for a 45.7% interest in two new reactors proposed for the Vogtle nuclear plant site near Augusta, Ga. Utility officials declined to disclose total costs. A typical Georgia Power household could expect to see its power bill go up by $144 annually to pay for the plants after 2018, the utility said.

Bill Edge, spokesman for the Georgia Public Service Commission, said Georgia "will look at what's best for ratepayers" and could pull support if costs balloon to frightening heights. The existing Vogtle plant, put into service in the late 1980s, cost more than 10 times its original estimate, roughly $4.5 billion for each of two reactors. FPL Group, Juno Beach, Fla., estimates it will cost $6 billion to $9 billion to build each of two reactors at its Turkey Point nuclear site in southeast Florida. It has picked a reactor design by Westinghouse Electric Co., a unit of Toshiba Corp., after concluding it could cost as much as $12 billion to build plants with reactors designed by General Electric Co. The joint venture GE Hitachi Nuclear Energy said it hasn't seen FPL's calculations but is confident its units "are cost competitive compared with other nuclear designs."

Exelon, the nation's biggest nuclear operator, is considering building two reactors on an undeveloped site in Texas, and said the cost could be $5 billion to $6.5 billion each. The plants would be operated as "merchant" plants and thus would not have utility customers on the hook to pay for them, as is the case in both Florida and Georgia. Instead, they would have to cover expenses through wholesale power sales.

Several things could derail new development plans. Excessive cost is one. A second is the development of rival technologies that could again make nuclear plants look like white elephants. A drop in prices for coal and natural gas, now very expensive, also could make nuclear plants less attractive. On the other hand, if Congress decides to tax greenhouse-gas emissions, that could make electricity from nuclear plants more attractive by raising costs for generators that burn fossil fuels. Nuclear plants wouldn't have to pay the charges because they aren't emitters.

Some states are clearing a path for nuclear-power development, even before costs are fully known. They are inspired by a growing fear of climate change. "The verwhelming feeling in Florida is that nuclear power is popular and that's why it's going to go ahead," said J.R. Kelly,head of the Office of Public Counsel in Tallahassee, which represents consumers. "Our main concern is the tremendous cost."

In Florida, state officials are allowing utilities to collect money from customers to cover development and construction costs. In the past, regulators typically required utilities to bear the costs until plants were finished.

Many utilities said they are watching with interest. Ralph Izzo, chief executive of Public Service Enterprise Group Inc. in New Jersey, said his company may not be big enough to build a nuclear plant, even though it is a nuclear operator. "We're concerned by the rise in construction costs," he said.
Source: vwj.com
Read full post...

Phát triển điện hạt nhân: Cần lường trước thách thức lớn

10/05/2008
Việc lập kế hoạch xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở một số địa phương tại Việt Nam đang thu hút sự quan tâm của dư luận.

Xung quanh vấn đề này, hiện vẫn còn có nhiều ý kiến khác biệt. Để độc giả có thêm thông tin tham khảo, VnEconomy đã có cuộc trao đổi thẳng thắn với TS. Phạm Khánh Toàn, Viện trưởng Viện Năng lượng (Tập đoàn Điện lực Việt Nam).

Sạch hơn, rẻ hơn, ổn định hơn?

Thưa ông, điện hạt nhân là một trong những phương án đa dạng hóa nguồn cung cấp năng lượng được chú ý, nhưng hiện vẫn còn những ý kiến trái ngược nhau…


Nếu được đánh giá đúng vai trò, điện hạt nhân sẽ có triển vọng phát triển rất tốt ở Việt Nam. Tuy nhiên, cũng có những thách thức lớn cần phải lường trước.

Công nghiệp điện hạt nhân trên thế giới đã có lịch sử phát triển hơn 50 năm. Những năm cuối thập kỷ 70, điện hạt nhân đã phát triển rất nhanh. Tuy nhiên, sự cố Three Mile Island (Mỹ ) năm 1979 và thảm hoạ Chernobyl (Liên Xô cũ ) năm 1986 đã làm chậm lại tốc độ của ngành năng lượng mới này.

Nhưng đầu thế kỷ 21, công nghiệp điện hạt nhân đã có bước phát triển mới. Hiện trên thế giới có khoảng 440 lò đang hoạt động, 31 lò đang được xây dựng tính đến năm 2007, cùng nhiều lò đang có kế hoạch xây dựng.

Trong khi đó, theo dự báo trong hai thập kỷ tới, Việt Nam phải phát triển gấp 7-8 lần khả năng cung cấp điện hiện tại mới đảm bảo nhu cầu của nền kinh tế. Điều đó có nghĩa là chúng ta sẽ phải xây dựng mới các nhà máy để cung cấp thêm hơn 80.000 MW điện.

Như vậy, việc tìm kiếm một nguồn cung cấp đảm bảo với giá thành rẻ và ổn định đang là vấn đề sống còn đối với nền kinh tế.

Nhưng điện hạt nhân thực sự có là nguồn năng lượng sạch và rẻ?


Các nghiên cứu về giá thành sản xuất điện của Pháp, Phần Lan, Mỹ, Nhật Bản đều đi đến kết luận rằng điện hạt nhân có giá thành rẻ hơn so với các nhà máy phát điện sử dụng than, dầu hoặc khí từ 10-20%, tùy thuộc vào các điều kiện xây dựng và vận hành. Đặc biệt, trong điều kiện giá nhiên liệu ngày càng tăng nhanh thì giá thành sản xuất điện hạt nhân lại càng trở nên cạnh tranh hơn.

Giải quyết được vấn đề ô nhiễm môi trường cũng làm tăng ưu thế của điện hạt nhân. Nhà máy điện hạt nhân không phát thải khí CO2.

Vậy thì với một nhà máy có công suất 1.000 MW, chi phí đầu tư ban đầu sẽ như thế nào?


Mặc dù đã được cải tiến và tiêu chuẩn hoá các thiết kế để giảm chi phí, nhưng việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân vẫn đòi hỏi một nguồn vốn rất lớn và thời gian xây dựng dài, với các công nghệ phức tạp.

Nguồn vốn đầu tư cho một tổ máy phát điện 1.000 MW có thể lên tới hơn 2 tỷ USD.

Ngoài ra, nguồn nhiên liệu cung cấp cho hoạt động của các nhà máy này có ổn định và tin cậy?


Nhà máy điện hạt nhân đòi hỏi chi phí đầu tư ban đầu rất lớn nhưng chi phí vận hành rẻ. Khi xây đưa vào vận hành, nguyên liệu chủ yếu là các bó thanh nhiên liệu (thông thường là uranium). Nhiên liệu sẽ trải qua quãng thời gian vài năm trong lò phản ứng.

Theo các số liệu đã khảo sát, nguồn nhiên liệu uranium được phân bố khá dồi dào tại Úc, Canada, Nam Phi, Kazakhstan, Brazil, Mỹ, Nga… đủ đảm bảo cung ứng cho ngành công nghiệp hạt nhân trong thời gian dài.

Đó là chưa tính tới việc sử dụng nhiên liệu hỗn hợp và sự phát triển công nghệ lò tái sinh sẽ đem lại cơ hội sử dụng nhiên liệu là thorium lên tới hàng nghìn năm.

“Một sai lầm nhỏ cũng có thể dẫn đến hậu quả lớn”


Khi phát triển các nhà máy điện hạt nhân, chúng ta sẽ phải phụ thuộc vào công nghệ của nuớc ngoài. Tính an toàn của những công trình này sẽ được bảo đảm như thế nào?


Xu hướng gần đây cho thấy lò nước nhẹ công suất lớn (bao gồm cả lò nước sôi và lò nước áp lực) đang chiếm ưu thế trong các dự án đang được xây dựng, cũng như các dự án có kế hoạch xây dựng.

Trên thế giới hiện hình thành 3 liên minh cung cấp thiết bị lớn là Westinghouse - Toshiba, Areva - Mitshubishi, General Electric - Hitachi. Ngoài ra, Atomstroi của Nga cũng là nhà thầu có nhiều dự án đang xây dựng ở nước ngoài.
Lựa chọn công nghệ phù hợp với các đặc thù của Việt Nam cũng sẽ là một thách thức lớn cho những người có trách nhiệm đặt nền móng cho ngành công nghiệp nguyên tử.

Tuy nhiên vận hành và bảo dưỡng nhà máy an toàn trong một thời gian dài từ 40 – 60 năm mới là nỗi quan tâm lo lắng nhất. Một sai lầm nhỏ cũng có thể dẫn đến những hậu quả và thiệt hại to lớn.

Không giống như các nhà máy điện khác, vấn đề an toàn ở đây bao gồm cả vấn đề bảo vệ nhà máy chống lại mối đe doạ phá hoại từ bên ngoài (đe doạ gây thảm hoạ phóng xạ), và bảo vệ nguyên liệu hạt nhân.

Sự hậu thuẫn và ủng hộ của các cường quốc, cũng như các nước trong khu vực là một yếu tố quan trọng đảm bảo an ninh của các công trình này. Thêm vào đó, đội ngũ cán bộ trong nước cũng phải được đào tạo để tiếp nhận công nghệ mới trong thời gian sớm nhất. Tất cả những vấn đề này trong kế hoạch cũng đang được cân nhắc .

Chất thải hạt nhân cũng là vấn đề khiến nhiều người lo lắng. Bài toán này sẽ được giải quyết như thế nào?


Chất thải phóng xạ hiện là một vấn đề chưa có được hướng giải quyết triệt để.

Sau ba năm sử dụng, các thanh nhiên liệu đã cháy được coi là chất thải hoạt độ cao. Tại nhiều nước các chất bó thanh nhiên liệu này được lưu giữ tại nhà máy (thời hạn có thể đến 50 năm) rồi được vận chuyển đến địa điểm lưu trữ lâu dài.

Tuy nhiên, chưa nước nào có được một địa điểm ổn định lưu giữ chất phóng xạ cao này trong thời gian dài (1.000 - 100.000 năm), mà mới chỉ ở mức độ mô phỏng trên mô hình (Pháp). Nhưng các nghiên cứu về xử lý và quản lý chất thải hoạt độ cao đang được nhiều nước trên thế giới quan tâm đầu tư nghiên cứu.

Hy vọng, với tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ, sẽ sớm có giải pháp tối ưu cho vấn đề này trong thời gian tới.

Khi lập kế hoạch xây dựng các nhà mày điện hạt nhân, các ông có tổ chức thăm dò ý kiến nhân dân?


Các cuộc triển lãm và thăm dò dư luận tại Hà Nội, Tp.HCM, Ninh Thuận, Phú Yên do Viện Năng lượng và Viện Năng lượng nguyên tử (Bộ Khoa học và Công nghệ) tiến hành trong ba năm, cho thấy tỷ lệ ủng hộ của dân chúng rất cao.

Cụ thể, 90% thấy sự cần thiết của điện hạt nhân, 47,7% coi điện hạt nhân có ích và an toàn, chỉ có 4,6% coi là nguy hiểm.

Tuy nhiên, sự ủng hộ này đang bị giảm sút do thiếu sự tuyên truyền và những thông tin phổ cập. Khi ngành công nghiệp điện hạt nhân chứng minh được giá trị kinh tế, tính an toàn, bảo vệ môi trường, chắc chắn nó sẽ nhận được sự đồng thuận cao hơn.

Sẽ trình Quốc hội dự án điện hạt nhân


Hiện tại, để chuẩn bị cho những nhà máy đầu tiên có thể khởi công, Viện Năng lượng đã và đang làm những gì?


Việc chuẩn bị cho phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam đã được dự kiến từ thập kỷ 90 của thế kỷ trước. Tuy nhiên mới chỉ dừng ở nghiên cứu tổng quan.

Công việc chuẩn bị đã được triển khai từ 2002, khi Thủ tướng có ý kiến chỉ đạo lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi (báo cáo đầu tư) xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên của Việt Nam. Báo cáo này đã được Viện Năng lượng phối hợp cùng một số cơ quan liên quan khác trình Thủ tướng vào tháng 8/2005.

Cuối tháng tư vừa qua, Viện Năng lượng đã được Bộ Công Thương và Tập đoàn điện lực Việt Nam tiếp tục giao nhiệm vụ lập báo cáo đầu tư xây dựng nhà máy điện hạt nhân tại địa điểm Phước Dinh 1 và Phước Dinh 2 (Ninh Thuận).

Theo kế hoạch thì báo cáo đầu tư xây dựng hai nhà máy điện hạt nhân này sẽ trình Hội đồng Thẩm định Nhà nước, sau đó vào tháng 5/2009 sẽ trình Quốc hội. Mỗi địa điểm dự kiến xây dựng hai tổ máy. Mỗi tổ máy có công suất 1.000 MW. Dự kiến, tổ máy đầu tiên sẽ đi vào vận hành năm 2020.

Viện Năng lượng đồng thời đang tiến hành lập hai báo cáo quy hoạch địa điểm chi tiết tại Phước Dinh và Vĩnh Hải để có thể sớm trình Bộ Công Thương phê duyệt địa điểm, nhằm chuẩn bị các điều kiện cần thiết để xây dựng nhà máy.

Ngoài ra, để đáp ứng việc phát triển nhiều tổ máy điện hạt nhân trong tương lai, việc tiến hành tìm kiếm thêm các địa điểm khác là hết sức cần thiết. Công việc qui hoạch các địa điểm tiềm năng này đang được Viện nghiên cứu và sẽ sớm có báo cáo cụ thể.

Source: vneconomy
Read full post...

Điện hạt nhân trong tầm ngắm chiến lược

09/05/2008
Khoảng mười năm nữa, nhu cầu sử dụng điện Việt Nam sẽ tăng gấp đôi. Cuộc khủng hoảng cung cầu điện năng sẽ gay gắt gấp bội hiện nay. Trong tình thế đó, điện hạt nhân đang nằm trong tầm ngắm của các nhà chiến lược năng lượng…

Gay gắt cung cầu
Bước vào mùa hè 2008 này, cả nước ta đang chịu cảnh cắt điện theo lịch. Điều này chứng tỏ sự bắt đầu chu kỳ căng thẳng hàng năm giữa cung và cầu điện năng.

Lý do cũng dễ hiểu. Muốn bảo đảm sự cung cấp điện năng “thoải mái” cho người tiêu dùng, nhà cung cấp không chỉ cấp đủ mà phải có lượng điện dự trữ đề phòng những bất trắc, như hỏng hóc máy móc, thiếu nước cho nhà máy thủy điện, thiếu khí đốt hay than cho nhà máy nhiệt điện v.v…. Chẳng hạn, trong năm nay, theo Thứ trưởng Bộ Công thương Đỗ Hữu Hào, nhu cầu công suất điện là 12.000 - 13.000 megawatt (MW), trong khi khả năng cung cấp của tất cả các loại nhà máy điện hiện có chỉ khoảng 12.000 MW. Không có lượng điện dự trữ, nên ở những giờ cao điểm cả nước có thể thiếu đến khoảng 1.000MW. Do vậy, sự căng thẳng điện năng đang xảy ra là điều không tránh khỏi.

Trong một tương lai gần, 10 - 20 năm nữa, sự cân bằng cung cầu càng gay gắt gấp nhiều lần, nếu cấu trúc điện năng nước ta không thay đổi căn bản.

Ở các nước công nghiệp phát triển, thông thường nếu GDP tăng tỷ lệ 1% thì điện năng tăng tương ứng 1,5%, còn những nước như Việt Nam ta, điện năng tăng gấp đôi so với GDP. Bức tranh cung cầu về điện cho những năm 2015 và 2020 được minh họa trên đồ thị kèm theo. Màu vàng mô tả khả năng đáp ứng bằng mọi nguồn điện năng hiện có trong nước. Màu xanh mô tả nhu cầu điện năng, theo hai giả thiết khác nhau: sử dụng điện ở mức cao nhất; gọi là kịch bản cao (HS) hay thấp nhất; gọi là kịch bản thấp (LS).
Bức tranh cung cầu điện năng nước ta năm 2015 và 2020
(Chú thích: Con số trên trục bên trái chỉ lượng điện tổng cộng/ năm,
tính bằng đơn vị TWh; 1TWh = 1012 Wh =1Tỉ KWh)

Theo bức tranh trên, đến năm 2015, mức chênh lệch giữa cung và cầu điện năng sẽ là 46,3 TWh (kịch bản thấp) và 102,4 TWh (kịch bản cao). Còn đến năm 2020, mức chênh lệch giữa cung và cầu điện năng sẽ cao hơn nhiều: 159,8 TWh (kịch bản thấp) và 270,8 TWh (kịch bản cao). Như vậy, cùng với sự tăng trưởng GDP, khoảng cách giữa cung và cầu điện năng càng lớn, càng gay gắt, nếu không có một sự thay đổi căn bản cấu trúc các thành phần điện năng, hay nói cách khác chưa có một nguồn điện năng nào có thể đóng vai trò cứu cánh.

“Cứu cánh” chưa tồn tại

Thử đặt mọi nguồn điện năng đang tiềm tàng lên bàn phân tích.

Trước hết là thủy điện. Thủy điện đã và đang được khai thác triệt để. Nhưng nguồn tài nguyên “trắng’ và sạch đó không phải là vô tận.

Sau nhà máy thủy điện Sơn La đang xây dựng, những nhà máy công suất lớn, cỡ 1.000 MW (megawatt), thậm chí 600 MW cũng không còn nữa. Từ nay, chỉ còn có thể xây dựng các nhà máy thủy điện nhỏ với công suất khoảng 350 MW trở lại. Và tổng điện năng của các thủy điện nhỏ đó, dù có khai thác hết, đến năm 2020 cũng chỉ đạt khoảng 4.500 - 5.000 MW, tương đương một điện lượng xấp xỉ 40 - 45 TWh/năm. Con số này quả là còn xa với nhu cầu đối với kịch bản cao (khoảng 270 TWh) trong năm 2020. Điều này có nghĩa là thuỷ điện chưa phải là nguồn điện cứu cánh cho đất nước trong tương lai gần, một hai thập kỷ tới.

Nhiệt điện than và dầu khí? Đây là dạng năng lượng chủ chốt đang được tập trung khai thác. Nhưng nguồn dự trữ khí ngoài biển rất hạn chế. Dầu cũng không phải quá dồi dào, nếu không nói là sẽ cạn kiệt trong vài chục năm nữa. Mặt khác, càng ngày dầu mỏ càng trở nên nguyên liệu quý hiếm cho nhiều ngành công nghiệp, nên việc đốt dầu thành điện là sự lãng phí đáng tiếc. Vì lẽ đó, trong lĩnh vực nhiệt điên, chủ yếu phải dựa vào điện than.

Nhưng điện than chứa đựng những trở ngại rất lớn. Trước hết, với khả năng khai thác nội địa rất hạn chế hiện nay, nước ta phải nhập một lượng than “kinh khủng”, khoảng vài ba chục triệu tấn than đá mỗi năm. Điều này, trước hết, sẽ gây ra tình trạng ô nhiễm lớn cho một loạt bến cảng bốc dở than, hay ô nhiễm môi trường nhiều vùng biển rộng lớn của nước ta. Chỉ riêng việc này đã làm mất tính hấp dẫn của loại hình nhiệt điện than. Nhưng điều quan ngại lớn hơn của nhiệt điện than chính là khí phát thải, là hiệu ứng nhà kính, là sự biến đổi khí hậu toàn cầu hiện đang đe dọa cuộc sống và sự phát triển mọi quốc gia trên trái đất.

Liệu có dám chấp nhận mọi trả giá, phát triển ồ ạt nguồn nhiệt điện để biến nó trở thành “con át chủ bài” ngành điện trong những năm 2010-2020 và nhiều năm sau đó, bất chấp những thoả thuận quốc tế ở Kyoto trước đây và Bali mới đây?

Các nguồn năng lượng mới? Năng lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng sinh học quả là những nguồn năng lượng sạch, cần thiết và đang được đầu tư nghiên cứu phát triển ở nhiều nước công nghiệp phát triển. Đó có thể là nguồn điện thực sự cứu cánh của nhân loại trong một tương lai xa, giữa và cuối thế kỷ 21.

Tuy nhiên, hiện nay và trong tương lai gần, xét về phương diện công nghệ cũng như kinh tế (giá thành) các nguồn điện năng này đang còn nhiều hạn chế. Theo tính toán, khả năng đóng góp tất cả các nguồn điện năng này trong năm 2020, ở nước ta, cũng chỉ khoảng 2800 MW, tương đương công suất của hai lò phản ứng hạt nhân năng lượng. Con số đó dù đáng khích lệ, nhưng vẫn nhỏ bé so với nhu cầu điện năng quốc gia.

Vậy giải pháp nhập khẩu năng lượng? Đây là một giải pháp hiện thực, đang được khai thác và sẽ đẩy mạnh hơn trong tương lai. Chúng ta đang nói đến nhập khẩu điện từ các nước láng giềng như Lào, Trung Quốc, Campuchia và nhập khẩu than, chẳng hạn từ Úc. Theo dự tính, đến năm 2015, để bảo đảm cân đối năng lượng, nước ta có thể nhập khoảng 13 TWh điện và khoảng 35 triệu tấn than (theo kịch bản cao).

Đến năm 2020, nếu không có giải pháp mới nào khác, năng lượng nhập khẩu dự tính phải lớn hơn, chiếm khoảng 38-53% tổng năng lượng cần thiết. Ở đây, lại nảy sinh vấn đề nghiêm trọng khác - an ninh năng lượng quốc gia. Một chiến lược năng lượng quá phụ thuộc nước ngoài hẳn là phiêu lưu và chỉ có thể chấp nhận trong những trường hợp bất khả kháng. Dù rằng nhập khẩu năng lượng ở một mức độ nhất định, có tính toán là một trong những giải pháp giải pháp cần thiết, không thể bỏ qua.

Cuối cùng là giải pháp tiết kiệm năng lượng. Đây là giải pháp chung của mọi quốc gia. Đối với các nước đang phát triển, như Việt Nam, càng có ‎ nghĩa đặc biệt. Tuy vậy, chính sách tiết kiệm năng lượng cũng chỉ góp phần giảm bớt chứ không thể giải quyết căn bản tình trạng mất cân bằng gay gắt cung cầu điện năng.

Nhìn chung, các giải pháp điện năng đưa ra trên đây đều cần được quan tâm xem xét, đều có vai trò nhất định trong mạng lưới điện quốc gia. Nhưng, quả thật, chưa có giải pháp nào trong đó có thể xem là cứu cánh cho ngành năng lượng Việt Nam, giúp chúng ta thoát khỏi cuộc khủng hoảng cung cầu, ít nhất, trong một vài thập kỷ tới. Do đó, việc tiếp cận nguồn năng lượng mới khác, như điện hạt nhân, là điều tất yếu.

Điện hạt nhân mang tầm chiến lược

Điện hạt nhân, trong nhiều năm nay, được các nhà chiến lược và công nghệ năng lượng nước ta quan tâm, bởi sự hội tụ những ưu điểm nội tại về mặt công nghệ và kinh tế, mặt khác thích ứng với chiều hướng hồi sinh của điện hạt nhân trên thế giới trong những năm gần đây.

Dù vẫn còn những lo lắng và e ngại về tính an toàn lò phản ứng hạt nhân và việc chôn cất chất phóng xạ, nhưng 20 năm qua kể từ sự cố Chernobyl, sự vận hành an toàn của hàng trăm lò phản ứng rải rác trên thế giới và sự xuất hiện nhiều biện pháp công nghệ an toàn khác nhau đã đem lại niềm tin mới cho dân chúng đối với công nghệ điện hạt nhân.

Đặc biệt, trong xu thế của thế giới đối phó hiểm họa biển đổi khí hậu toàn cầu hiện nay, điện hạt nhân quả là sự lựa chọn thích hợp, góp phần tích cực thay thế các nhà máy nhiệt điện sử dụng nhiên liệu hoá thạch, nhằm giảm hạn chế phát thải khí ô nhiễm môi trường gây hiệu ứng nhà kính. Các yếu tố quan trọng khác đối với những nước đang phát triển như nước ta là điều kiện khá thuận lợi trong việc nhập công nghệ nhà máy điện hạt nhân từ các nước tiên tiến và sự bảo đảm chắc chắn nguồn nhiên liệu uranium nội địa và ngoại nhập trong bối cảnh quốc tế hiện nay.

Tất cả những yếu tố trên cùng với công suất lớn của các lò phản ứng hạt nhân năng lượng trên thị trường thế giới đã mở ra khả năng đáp ứng phần đáng kể nhu cầu điện năng cho đất nước trong tương lai sắp tới, từ năm 2020 đến giữa thế kỷ 21. Vì lẽ đó, phát triển điện hạt nhân đã trở thành nhiệm vụ mang tầm chiến lược của quốc gia hiện nay.

Thực tế trong nhiều năm qua, đặc biệt trong vài năm gần đây, Nhà nước đã có những động thái chuẩn bị cần thiết và nay đang đưa ra những quyết sách mạnh mẽ. Chẳng hạn, vào giai đoạn 1991-1995, trong Chương trình Nhà nước về Khoa học Công nghệ mang mã số KC-09, điện hạt nhân đã được chính thức bắt đầu nghiên cứu, khảo sát qua đề tài “Nghiên cứu khả năng đưa điện nguyên tử vào Việt Nam”. Sau nhiều năm chuẩn bị, vừa qua, năm 2007, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định ban hành “Chiến lược ứng dụng NLNT vì mục đích hoà bình đến năm 2020” và “Kế hoạch tổng thể” thực hiện bản Chiến lược nói trên.

Việc đầu tư nhà máy điện hạt nhân tại Việt Nam đã được nêu rõ trong Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về “Phê duyệt quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2006-2015 có xét đến năm 2025’. Chính phủ đang chỉ đạo EVN lập dự án đầu tư xây dựng 2 nhà máy điện nguyên tử với công suất tổng cọng 4.000MW. Về thời hạn, dự kiến đến năm 2020 tổ máy điện hạt nhân đầu tiên sẽ đưa vào hoạt động, và đến năm 2025, mạng lưới điện quốc gia sẽ được bổ sung 11.000MW công suất điện hạt nhân (bằng 5,5 lần công suất của nhà máy thủy điện Hòa Bình hiện nay), tăng tỷ trọng điện hạt nhân, trong toàn bộ hệ thống điện quốc gia, lên đến con số 20-30%.

Về phương diện pháp l‎ý, một Dự án Luật Năng lượng Nguyên tử đã được xây dựng bởi một ban soạn thảo với sự tham gia của các chuyên gia luật pháp và khoa học công nghệ hạt nhân. Dự án này đã đệ trình xin ý kiến Quốc Hội khoá XII xem xét trong kỳ họp thứ 2, sau đó tổ chức để các đại biểu cử tri ở một số địa phương tham gia bổ sung. Chúng ta đang chờ đợi, ngay trong tháng 5.2008 này, tại kỳ họp thứ 3, Quốc Hội sẽ biểu quyết thông qua. Đây là bước đi rất quan trọng mở hành lang pháp lý chính thức phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam.

Chỉ còn 12 năm, kể từ nay đến lúc nhà máy điện hạt nhân đầu tiên của Việt Nam được ấn định phải đưa vào vận hành chính thức. Hàng loạt công việc phải giải quyết trong khoảng thời gian đó.
12 năm không phải là dài. Hy vọng đúng mốc thời gian đó, năm 2020, Việt Nam sẽ không lỡ hẹn và sẽ chính thức đi vào lịch sử như là một trong những quốc gia đầu tiên ở Đông Nam Á có điện hạt nhân.
Source: VNN
Read full post...

MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG LUẬT PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ Ở NƯỚC TA

28/03/2008
Phan Xuân Dũng
TSKH, Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội

Xây dựng nhà máy điện nguyên tử ở nước ta đã trở thành một trong những nhiệm vụ thiết yếu, bởi trong một tương lai không xa, thế giới sẽ phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng về năng lượng trong lúc các nguồn nhiên liệu hóa thạch đang cạn dần. Những lợi ích từ năng lượng nguyên tử đã thấy rõ, song những mặt trái cũng nhiều, nếu như chúng ta không có những bước đi đúng đắn để lĩnh vực năng lượng nguyên tử ở nước ta phát triển một cách bền vững.

1 - Xu hướng phát triển năng lượng nguyên tử trên thế giới

Cơ cấu năng lượng đang sử dụng của loài người hiện nay chủ yếu nghiêng về nguồn nhiên liệu hóa thạch. Cụ thể, dầu chiếm 40%, than đá khoảng 26%, khí thiên nhiên: 24%(1). Nhưng với tốc độ tăng trưởng kinh tế hiện nay và sự gia tăng dân số thế giới (dự báo: đến năm 2025 là 8 tỉ người và năm 2050 là 9,8 tỉ người), nhân loại sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn trong việc đáp ứng nhu cầu về năng lượng, vì nguồn tài nguyên không tái tạo này đang ngày càng cạn kiệt, trong khi nguồn năng lượng mặt trời, năng lượng từ sức gió... cũng chỉ cung cấp được khoảng 10% tổng số năng lượng cần thiết, nếu không có bước nhảy vọt về công nghệ trong lĩnh vực này.

Trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử, thực tế đã chứng minh việc nghiên cứu và sử dụng năng lượng này đã mang lại những lợi ích to lớn. Những năm gần đây, nhiều nước trên thế giới đã chú trọng đến phát triển điện hạt nhân (xem bảng 1). Xu thế xây dựng nhà máy điện hạt nhân đang gia tăng và tập trung ở châu Á. Chẳng hạn, ấn Độ đang xây dựng 7 lò phản ứng hạt nhân; Trung Quốc hiện đã có 11 lò và đang hoàn thiện 9 lò, có kế hoạch đến năm 2020 sẽ xây dựng thêm khoảng 30 lò phản ứng hạt nhân mới; Thái Lan đang chuẩn bị xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên để đưa vào vận hành năm 2020...

Bảng 1: Số lượng lò phản ứng hạt nhân
đang hoạt động ở các nước tính đến ngày 8-8-2007

Nước

Số lò

phản ứng

Công suất

(Mwe)

Hoa Kỳ

104

100.322

Pháp

59

63.260

Nhật Bản

55

47.587

LB Nga

31

21.743

Hàn Quốc

20

17.454

Vương quốc Anh

19

10.222

Ca-na-đa

18

12.589

CHLB Đức

17

20.339

ấn Độ

17

3.779

U-crai-na

15

13.107

Trung Quốc

11

8.572

Thụy Điển

10

9.034

Tây Ban Nha

8

7.450

Vương Quốc Bỉ

7

5.824

Cộng hòa Séc

6

3.523

Slô-va-ki-a

5

2.034

Thụy Sĩ

5

3.200

Phần Lan

4

2.696

Hung-ga-ry

4

1.755

Pa-kit-xtan

2

425

Ru-ma-ni

2

1.310

Nam Phi

2

1.800

Mê-hi-cô

2

1.360

Ac-hen-ti-na

2

935

Bra-xin

2

1.795

Bun-ga-ri

2

1.906

Lit-tua-ni-a

1

1.185

Ac-mê-ni-a

1

376

Slô-vê-ni-a

1

666

Hà Lan

1

482

Toàn thế giới

439(*)

371.671

(*) Kể cả 6 lò phản ứng của Đài Loan với tổng công suất 4.921 MWe.

Nguồn: Báo cáo của IAEA

2 - Tình hình ứng dụng năng lượng nguyên tử ở Việt Nam

Ở nước ta, năng lượng nguyên tử được sử dụng trong các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp và y tế từ rất sớm và đem lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế - xã hội; nghiên cứu ứng dụng điện hạt nhân cũng bắt đầu được quan tâm. Theo số liệu của Bộ Khoa học và Công nghệ, tính đến hết năm 2006 cả nước có:

- 188 cơ sở bức xạ sử dụng 1.961 nguồn phóng xạ kín, trong đó, số nguồn được sử dụng trong y tế là 35%, công nghiệp là 30%, nghiên cứu đào tạo là 21% và các lĩnh vực khác là 14%.

- Trong lĩnh vực y tế, hơn 2.700 máy

X - quang chẩn đoán bệnh tại gần 1.900 cơ sở, 22 máy xạ trị Co-60, 10 máy gia tốc, 589 nguồn xạ trị áp sát; 22 cơ sở y học hạt nhân sử dụng dược chất phóng xạ để chẩn đoán và điều trị bệnh với các đồng vị I-131, I-125, P-32, Mo-99/Tc-99m, Sm-153, Tl-201, Ga-67 và In-111.

- Trong lĩnh vực công nghiệp, có khoảng 300 nguồn được dùng trong kiểm tra mẫu không phá hủy và thăm dò dầu khí, riêng trong chiếu xạ thực phẩm có khoảng 5 thiết bị đã hoàn thành việc lắp đặt và đi vào hoạt động.

Theo Bộ Công Thương, sơ bộ cân đối nhiên liệu cho sản xuất điện theo các phương án phụ tải ở các năm 2015, 2020 và 2030 cho thấy, với tổng nhu cầu điện dự báo theo Phương án cao và tổng sản lượng điện có thể cung cấp từ các nguồn than, khí đốt, thủy điện và năng lượng mới ở nước ta, thì còn thiếu tới 23,8 tỉ kWh vào năm 2015; 104,1 tỉ kWh vào năm 2020 và 375 tỉ kWh vào năm 2030 (xem: bảng 2). Do đó, việc phát triển điện hạt nhân là một giải pháp quan trọng cho sự thiếu hụt trên. Điện hạt nhân có nhiều ưu điểm so với nhà máy nhiệt điện và thủy điện, nhưng yêu cầu phải bảo đảm an toàn, an ninh cho nhà máy điện hạt nhân là rất cao.

Bảng 2: Cân đối sơ bộ về nhiên liệu cho sản xuất điện theo các phương án phụ tải ở

các năm 2015 - 2020 và 2030 (theo Báo cáo số 1572 ngày 12-4-2007 của Bộ Công nghiệp):

Năm

2015

2020

2030


Khai thác

SL điện, tỉ kWh PA

Thấp/cơ sở/cao

Khai thác

SL điện, tỉ kWh PA

Thấp/cơ sở/cao

Khai thác

SL điện, tỉ kWh PA

Thấp/cơ sở/cao

Sản lượng than

55,8


64,3


78,4


Cho điện (Tr.tấn)

23,1

55,2

33,1

82,2

47

120,5

Cho ngành khác (*)

32,7


31,2


17,5


Sản lượng khí đốt

15,1


18,3


22


Cho điện (tỉ m3)

13,1

77,6

16

80

18

80

Cho ngành khác (m3)

2,0


2,3


4


Thủy điện

15.090

MW

56

17.700

MW

62,6

20.000

MW

83

Năng lượng mới

1270

MW

3,4

17.700

MW

5,1

3.300

MW

9,5

Tổng sản xuất điện trong nước


192,2


229,9


293

Tổng nhu cầu điện


169/190/216


247/294/334


455/562/668

Thiếu (-) thừa (+)


+23,2/+2,2/-23,8




-162/-269/-375

(*). Chỉ tính than cho nhu cầu trong nước, chưa kể xuất khẩu

Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc ứng dụng năng lượng nguyên tử phục vụ phát triển kinh tế - xã hội được Đảng và Nhà nước ta sớm dành nhiều sự quan tâm, trong đó có vấn đề phát triển điện hạt nhân, thể hiện ở các chủ trương, chính sách lớn sau:

- Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII ngày

24-12-1996, phần định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã xác định "Chuẩn bị tiền đề khoa học cho việc sử dụng năng lượng nguyên tử sau năm 2000".

- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, phần Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2010, đã định hướng nhiệm vụ "Nghiên cứu phương án sử dụng năng lượng nguyên tử".

Thực hiện chủ trương này, Chính phủ đã ban hành các văn bản để tổ chức triển khai thực hiện:

- Ngày 05-3-2002, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định thành lập Tổ công tác chỉ đạo nghiên cứu phát triển nhà máy điện hạt nhân ở nước ta.

- Ngày 05-10-2004, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển ngành điện Việt Nam giai đoạn 2004 - 2010, định hướng đến 2020, giao nhiệm vụ "Đầu tư, nghiên cứu, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để có thể xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên ở Việt Nam".

- Ngày 03-01-2006, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt "Chiến lược ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình đến năm 2020" và ngày 23-7-2007 phê duyệt kế hoạch tổng thể thực hiện chiến lược này.

Việc đẩy mạnh sử dụng năng lượng nguyên tử phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trong những năm tới đặt ra nhu cầu sớm hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này. Những quy định của Pháp lệnh An toàn và Kiểm soát bức xạ (Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 25-6-1996) đến nay đã bộc lộ nhiều điểm không còn phù hợp với thực tiễn. Vì vậy, việc ban hành một đạo luật có tính pháp lý cao hơn nhằm đáp ứng các yêu cầu bảo đảm an toàn, an ninh trong việc sử dụng năng lượng nguyên tử, đổi mới phương thức quản lý, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật cũng như tăng cường trách nhiệm để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân trong sản xuất, kinh doanh, sử dụng năng lượng nguyên tử... là rất cần thiết.

Từ đó cho thấy, việc Chính phủ đang tiến hành dự thảo Luật Năng lượng nguyên tử là một bước quan trọng thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng về sử dụng năng lượng nguyên tử và bảo đảm an toàn, an ninh trong sử dụng nguồn năng lượng này phục vụ phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta, là phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, mở đường cho việc xây dựng những nhà máy điện hạt nhân đầu tiên của Việt Nam.

3 - Một số điểm cần lưu ý trong soạn thảo dự án Luật Năng lượng nguyên tử

Thứ nhất: Về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng và tư tưởng chỉ đạo của Dự án Luật. Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng ảnh hưởng đến toàn bộ nội dung của Luật. Lĩnh vực năng lượng nguyên tử rất rộng, có nhiều vấn đề cần quan tâm, vì thế, cần phải làm rõ phạm vi điều chỉnh của Luật. Hơn nữa, đây là vấn đề nhạy cảm không chỉ trong nước, mà còn đối với cả khu vực và trên thế giới, đặc biệt là về việc ứng dụng bức xạ hạt nhân và xây dựng nhà máy điện nguyên tử đầu tiên của nước ta. Quy định về các hoạt động phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử và bảo đảm an toàn, an ninh cho các hoạt động đó phải được nêu rõ trong Luật. Lĩnh vực năng lượng nguyên tử phải được hiểu là bao gồm cả hai lĩnh vực năng lượng hạt nhân và bức xạ ion hóa.

Khi xây dựng dự thảo Luật Năng lượng nguyên tử, cần xây dựng các nội dung không chỉ phù hợp với Hiến pháp, thống nhất với hệ thống pháp luật nước ta và còn phải tuân thủ những nguyên tắc của pháp luật quốc tế, nhất là với những điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên, như: Hiệp ước cấm phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT) năm 1982; Hiệp định Thanh sát hạt nhân và Nghị định thư bổ sung (SA) ký năm 1989, phê chuẩn năm 1990; Hiệp ước Cấm thử vũ khí hạt nhân toàn diện (CTBT) ký năm 1996, phê chuẩn năm 2006; Hiệp ước về khu vực Đông - Nam á không vũ khí hạt nhân (1997); Công ước về thông báo nhanh trong trường hợp sự cố hạt nhân (1987); Công ước về trợ giúp trong trường hợp có tai nạn hạt nhân hay sự cố phóng xạ khẩn cấp (1987); Bộ Quy tắc ứng xử về an toàn và an ninh nguồn phóng xạ, và Hướng dẫn bổ sung về xuất nhập khẩu nguồn phóng xạ (gửi chấp nhận tới IAEA ngày 11-8-2006); Nghị định thư bổ sung (AP) ký ngày 10-8-2007; Công ước về Bảo vệ thực thể hạt nhân (đang nghiên cứu để tham gia).

Tóm lại, tư tưởng chỉ đạo trong Luật cần phải thể hiện được các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về ứng dụng và phát triển năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình; tạo môi trường pháp lý thuận lợi để đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng và phát triển năng lượng nguyên tử phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường, cải thiện chất lượng cuộc sống của nhân dân; coi phát triển điện hạt nhân là một giải pháp quan trọng nhằm bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, phát triển bền vững và tăng cường tiềm lực khoa học, công nghệ và trình độ công nghiệp của đất nước; bảo đảm an toàn ở mức cao nhất cho con người, môi trường và an ninh xã hội trong ứng dụng và phát triển năng lượng nguyên tử; kế thừa các quy định hiện hành về năng lượng nguyên tử; tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm pháp luật của các nước để áp dụng sao cho phù hợp với tình hình thực tiễn nước ta.

Thứ hai: Về nội dung quản lý nhà nước trong Luật. Phải tính đến đặc thù của lĩnh vực năng lượng nguyên tử để xác định rõ cơ quan chịu trách nhiệm chính, cơ quan phối hợp của các bộ, cơ quan ngang bộ, ủy ban nhân dân các cấp trong quá trình tổ chức thực hiện ứng dụng và phát triển lĩnh vực này. Quản lý nhà nước về năng lượng nguyên tử đòi hỏi sự am hiểu sâu về chuyên môn, nghiệp vụ liên quan đến an toàn, an ninh và công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này. Nên có sự cân nhắc, tính toán kỹ để bảo đảm sự thống nhất của pháp luật, không nên có những quy định chồng chéo trong hệ thống pháp luật, sẽ gây khó khăn cho việc áp dụng Luật.

Do đặc thù của lĩnh vực năng lượng nguyên tử với tầm quan trọng và tính nhạy cảm của nó, yêu cầu bảo đảm an toàn, an ninh đối với các cơ sở bức xạ, cơ sở hạt nhân, trong đó có nhà máy điện hạt nhân, bảo đảm phát triển bền vững kinh tế - xã hội..., nên việc phân công, phân cấp rõ ràng trách nhiệm quản lý nhà nước trong lĩnh vực này là hết sức cần thiết.

Bên cạnh việc cân nhắc kỹ với các quy định cụ thể, phân công, phân cấp rõ ràng trách nhiệm cho các cơ quan quản lý nhà nước, nhằm bảo đảm sự thống nhất cao, tránh chồng chéo, thì vẫn phải bảo đảm tính linh hoạt, thích ứng với yêu cầu quản lý nhà nước của từng thời kỳ.

Về phân công trách nhiệm, cơ quan quản lý nhà nước chủ trì xây dựng quy hoạch sử dụng quặng phóng xạ, quy hoạch địa điểm chôn cất, xử lý, lưu giữ chất thải phóng xạ một cách an toàn; về xây dựng và quản lý nhà máy điện hạt nhân; phân công cơ quan có thẩm quyền cấp phép cho hoạt động của nhà máy điện hạt nhân; quy định trách nhiệm về bảo đảm an ninh, an toàn cho nhà máy điện hạt nhân,... cần có sự thống nhất phân công trách nhiệm cụ thể, rõ ràng.

Thứ ba: Về tính chiến lược của dự án Luật. Trên thế giới, phần lớn các nước phát triển điện hạt nhân như Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp, Nga... đều có cơ quan hội đồng năng lượng nguyên tử quốc gia làm chức năng tư vấn cho thủ tướng chính phủ về: Lập kế hoạch, thẩm định, quyết định chính sách cơ bản về năng lượng nguyên tử; chiến lược, kế hoạch phát triển ngành năng lượng nguyên tử, chương trình nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ phát triển nguồn nhân lực về năng lượng nguyên tử; lập kế hoạch dài hạn về nghiên cứu phát triển và sử dụng năng lượng nguyên tử quốc gia. Thủ tướng chính phủ hoặc tổng thống các quốc gia được giao trách nhiệm là chủ tịch hội đồng. Thành viên hội đồng thường là các nhà hoạch định chính sách, các chính trị gia.

Ở các quốc gia khác nhau, việc hình thành cơ cấu và quy mô tổ chức của ủy ban này cũng cũng khác nhau, chẳng hạn:

Tại Pháp, Ủy ban Năng lượng nguyên tử quốc gia có tới 15.000 nhân viên và có ngân sách hoạt động trên 3 tỉ Ơ-rô/năm, bên cạnh phục vụ các nhiệm vụ cụ thể trong nước thì còn giúp thành lập các khuôn khổ pháp lý cần thiết và các chương trình đào tạo nhằm duy trì kế hoạch hạt nhân dân sự.

Tại Nhật Bản, Hội đồng Năng lượng nguyên tử quốc gia được thành lập từ ngày 1- 1-1956, có cơ cấu tổ chức rất gọn nhẹ, do thủ tướng đứng đầu cùng với 5 thành viên khác được Quốc hội phê chuẩn. Giúp việc cho Hội đồng gồm có 25 chuyên gia làm việc chuyên trách. Khi cần thiết Hội đồng này huy động các chuyên gia, các nhà chính khách... cùng tham gia. Nhiệm vụ chính của Hội đồng là lập kế hoạch, thẩm định, quyết định chính sách cơ bản về năng lượng nguyên tử; lập kế hoạch dài hạn về nghiên cứu phát triển và sử dụng năng lượng nguyên tử quốc gia.

Ở Việt Nam, theo chúng tôi rất cần có Hội đồng hoặc Ủy ban tương tự để lĩnh vực năng lượng nguyên tử phát triển một cách bền vững, có một chiến lược phát triển hợp lý, tránh tình trạng "giật gấu, vá vai", "thích gì làm nấy", "đến đâu, hay đó". Vì thế, trong Dự án Luật cần quy định phải có Hội đồng hoặc Ủy ban Năng lượng nguyên tử quốc gia. Các thành viên là Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Công Thương, Bộ Y tế...

Thứ tư: Về an toàn của lĩnh vực năng lượng nguyên tử. Trong Luật cần có quy định về Hội đồng An toàn hạt nhân quốc gia, vì vấn đề an toàn của nhà máy điện hạt nhân và các cơ sở hạt nhân khác là rất hệ trọng. Sau khi nhà máy điện hạt nhân hoàn thành, hội đồng này có nhiệm vụ tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ trong việc ra các quyết định có liên quan đến chính sách và các biện pháp bảo đảm an toàn hạt nhân trong sử dụng năng lượng nguyên tử; đánh giá kết quả thẩm định về an toàn của nhà máy điện hạt nhân để tư vấn cho cơ quan có thẩm quyền cấp phép vận hành, yêu cầu tạm dừng hoặc chấm dứt hoạt động của nhà máy điện hạt nhân và các cơ sở hạt nhân khác. Hội đồng cần phải chịu trách nhiệm về ý kiến tư vấn của mình.

Hội đồng An toàn hạt nhân quốc gia là tổ chức tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ với đa số thành viên là các chuyên gia an toàn hạt nhân. Vì vậy, việc thành lập Hội đồng an toàn hạt nhân quốc gia; quy định chức năng, nhiệm vụ, cơ chế làm việc của Hội đồng thuộc thẩm quyền quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Chủ tịch Hội đồng nên cơ cấu một bộ trưởng chuyên ngành. Các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Pháp đều làm như vậy. Ở Việt Nam, theo đặc thù tổ chức Chính phủ, thành viên hội đồng, nên có sự tham gia của lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Xây dựng và đại diện của Bộ Y tế, ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có nhà máy điện hạt nhân. Hội đồng này thuần túy là tổ chức tư vấn về an toàn hạt nhân, nên cần có 2/3 thành viên là các chuyên gia an toàn hạt nhân.

Về vấn đề quản lý an toàn hạt nhân trong nhà máy điện hạt nhân, theo chúng tôi, nên giao Bộ Khoa học và Công nghệ chịu trách nhiệm quản lý; vì tổ hợp nhà máy điện hạt nhân có nhiều kết cấu liên quan chặt chẽ với nhau, nếu xảy ra sự cố ở bất kỳ bộ phận nào của tổ hợp đó cũng đều dẫn đến khả năng gây mất an toàn cho lò phản ứng hạt nhân của nhà máy điện hạt nhân. Tuy nhiên, cần rà soát, xem xét lại một số quy định nhằm bảo đảm cho Bộ Khoa học và Công nghệ có thể thực hiện đầy đủ chức năng quản lý nhà nước về an toàn nhà máy điện hạt nhân.

Thứ năm: Về thời hiệu khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại bức xạ và hạt nhân. Quy định quốc tế về thời hiệu khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại hạt nhân là 10 năm đối với thiệt hại về tài sản và môi trường, 30 năm đối với thiệt hại về tính mạng, sức khỏe con người. Quy định như vậy bảo đảm được quyền lợi của người bị thiệt hại, vì khi xảy ra sự cố hạt nhân thì mức độ thiệt hại không thể xác định được ngay, tác hại đối với môi trường và sức khỏe con người có thể rất lớn và lâu dài. Thiệt hại hạt nhân có tính đặc thù, có thể không có di chứng ngay lập tức mà nhiều năm sau mới phát hiện ra, thậm chí thiệt hại về sức khỏe mang tính di truyền, ảnh hưởng ở các thế hệ thứ 2, thứ 3... Đối với Việt Nam, việc đưa ra những quy định như vậy cũng là một điều hợp lý.

Thứ sáu: Về hoạt động thanh sát hạt nhân. Hoạt động thanh sát hạt nhân nên hiểu là hoạt động kiểm soát việc sử dụng vật liệu hạt nhân, vật liệu, thiết bị sử dụng trong chu trình nhiên liệu hạt nhân và các hoạt động có liên quan nhằm ngăn chặn phổ biến vũ khí hạt nhân, vận chuyển và sử dụng bất hợp pháp vật liệu hạt nhân.

Hoạt động thanh sát là hoạt động đặc thù, không hoàn toàn đồng nhất với hoạt động kiểm tra, kiểm soát, mà còn bao gồm cả việc kiểm toán, thống kê, xây dựng và quản lý hệ thống dữ liệu về vật liệu hạt nhân. Như vậy, cần làm rõ "thanh sát hạt nhân quốc tế" với các công tác kiểm tra, kiểm soát hạt nhân trong nước.

Hoạt động "thanh sát hạt nhân quốc tế" là hoạt động do thanh sát viên quốc tế thực hiện theo Hiệp định thanh sát hạt nhân quốc tế, do vậy phải soạn thảo các nội dung phù hợp với thông lệ quốc tế và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Còn đối với việc thanh sát hạt nhân trong nước, nên quy định là hoạt động kiểm tra, kiểm soát của cơ quan có chức năng quản lý nhà nước về phát triển, sử dụng năng lượng nguyên tử và của cơ quan quản lý về an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân.

Thứ bảy: Về lập, phê duyệt quy hoạch phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử. Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử. Nhưng việc lập, thẩm định và phê duyệt quy hoạch phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử là vấn đề phức tạp liên quan đến nhiều bộ, ngành, địa phương và các đối tượng khác nhau. Do đó, để bảo đảm tính khả thi, Luật cần quy định rõ việc phân công, phân cấp trách nhiệm một cách rõ ràng, cụ thể. Ví dụ, đối với trách nhiệm lập quy hoạch: a) Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì lập quy hoạch tổng thể phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử; b) Bộ Công thương chủ trì lập quy hoạch phát triển điện hạt nhân; quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng quặng phóng xạ; c) Bộ Xây dựng chủ trì lập quy hoạch tổng thể quốc gia về thu gom, xử lý, chôn cất chất thải phóng xạ; d) bộ, cơ quan ngang bộ tổ chức lập quy hoạch phát triển, ứng dụng bức xạ khác cho lĩnh vực quản lý theo chức năng, nhiệm vụ của mình.

Tương tự như vậy, đối với việc quy trách nhiệm thẩm định quy hoạch cũng cần có sự phân công, phân cấp một cách rõ ràng và khoa học.

Thứ tám: Về phát triển nguồn nhân lực và đầu tư phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử. Trong Luật nên có quy định biện pháp tăng cường tiềm lực con người, chính sách đào tạo nguồn nhân lực và chuyên gia có trình độ cao; trách nhiệm của các trường đại học, viện nghiên cứu trong công tác đào tạo nguồn nhân lực. Những giải pháp về nhân lực là rất cần thiết, cần được xây dựng thành những đề án riêng để giải quyết từng vấn đề cụ thể; Luật chỉ quy định những nội dung có tính nguyên tắc, còn các biện pháp cụ thể sẽ do Chính phủ quy định cho phù hợp với yêu cầu của từng thời kỳ.

Cần cân nhắc về việc khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư cho phát triển điện hạt nhân theo chương trình dài hạn. Việc đầu tư phát triển điện hạt nhân đòi hỏi đầu tư nguồn vốn lớn và tiến hành trong thời gian dài, nên việc huy động các nguồn lực của xã hội cho lĩnh vực này là cần thiết.

Thứ chín: Về quản lý, xử lý chất thải phóng xạ, nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng. Quy định về quản lý và thanh lý nguồn phóng xạ qua sử dụng được quy định trong Luật có thể là: Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia phân loại, xử lý chất thải phóng xạ, xử lý nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng; Bộ Xây dựng ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với kho lưu giữ chất thải phóng xạ quốc gia và địa điểm chôn cất chất thải phóng xạ; phê duyệt địa điểm kho lưu giữ chất thải phóng xạ quốc gia, địa điểm chôn cất chất thải phóng xạ; hướng dẫn việc báo cáo tình trạng chôn cất và lập bản đồ địa điểm chôn cất chất thải phóng xạ.

Đối với các hành vi bị nghiêm cấm, cần làm rõ quy định nghiêm cấm nhập khẩu chất thải có chứa chất phóng xạ; các hành vi buôn bán, vận chuyển trái phép chất phóng xạ và chất thải phóng xạ, vật liệu phóng xạ và hạt nhân bằng đường bưu điện và các phương tiện vận chuyển khác mà không được thiết kế hoặc có thiết bị bảo đảm an toàn.

Thứ mười: Về yêu cầu đối với nhà máy điện hạt nhân. Quy định việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân phải theo quy hoạch phát triển điện hạt nhân do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Việc lựa chọn địa điểm, thiết kế, xây dựng, vận hành và bảo đảm an toàn lò phản ứng hạt nhân của nhà máy điện hạt nhân phải tuân thủ các quy định của Luật này và các quy định tương ứng của các luật khác có liên quan.

Khi trình Quốc hội xem xét quyết định chủ trương đầu tư xây dựng nhà máy điện hạt nhân thì phải dự kiến địa điểm xây dựng nhà máy và lựa chọn công nghệ; các quy chuẩn kỹ thuật áp dụng cho thiết kế, thi công và xây dựng.

Việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân có tầm quan trọng đặc biệt. Theo kinh nghiệm của các nước đã phát triển điện hạt nhân, việc lấy ý kiến của nhân dân là cần thiết và thông qua Hội đồng nhân dân cấp tỉnh là phù hợp với điều kiện ở nước ta, nhất là các ý kiến thể hiện nguyện vọng của nhân dân về các biện pháp bảo đảm an toàn, an ninh, kế hoạch xây dựng hạ tầng kỹ thuật phát triển văn hóa, giáo dục, phúc lợi xã hội nhằm bảo đảm hài hòa các lợi ích.

Cần làm rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân liên quan ở cấp trung ương, cũng như chính quyền địa phương cấp tỉnh khi có sự cố xảy ra với các quy định và giải pháp khẩn cấp cụ thể.

Trong khi có sự cố xảy ra, Bộ Quốc phòng và Bộ Công an là lực lượng nòng cốt trong việc ứng phó. Khi cần thiết, với những sự cố nghiêm trọng, nên có sự huy động nhân lực, phương tiện và phối hợp quốc tế. Bộ, ngành nào chịu trách nhiệm chính trong trường hợp như vậy cũng nên quy định trong dự thảo Luật.

Về mức sự cố bức xạ, sự cố hạt nhân cần phân loại theo chuẩn mực quốc tế. Về vấn đề này, theo Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế, có 2 cách phân loại mức sự cố hạt nhân để phục vụ cho 2 mục đích sử dụng khác nhau, cụ thể như sau: Phân loại 7 mức sự cố để phục vụ cho việc thông báo nhanh với báo chí và dân chúng (INES)(2), Phân loại 5 mức sự cố để lập kế hoạch và áp dụng các biện pháp ứng phó(3).

Về chính sách đối với địa phương được chọn xây dựng nhà máy điện hạt nhân, cần đề nghị bổ sung một điều hoặc khoản quy định về chính sách đối với địa phương nơi đặt nhà máy điện hạt nhân.

*

* *

Thiết nghĩ rằng, phát triển điện nguyên tử là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Với quyết tâm cao, chắc chắn chúng ta sẽ có nhiều nhà máy điện hạt nhân hiện đại, an toàn và hiệu quả vào bậc nhất thế giới trong tương lai không xa.

(1) Theo Y.Iwakoshi: Hỏi đáp về năng lượng nguyên tử, Diễn đàn công nghiệp nguyên tử Nhật Bản, Viện năng lượng nguyên tử Việt Nam, Hà Nội, tháng 5-2004
(2) Tham khảo tài liệu của IAEA về INES: "The International Nuclear Events Scale (INES) is used for facilitating rapid communication to the media and the public regarding the safety significance of events at all nuclear installations"
(3) Tham khảo tài liệu của IAEA về ứng phó sự cố bức xạ và sự cố hạt nhân (EPR-Method 2003)

Source: www.tapchicongsan.org.vn
Read full post...
Add to Technorati Favorites

From vituyen blog