Monday, December 1, 2008

Điện hạt nhân – Kẻ cổ vũ, người phản đối

15/05/2008
Quốc hội Đức đã thông qua đề nghị sửa đổi Luật Năng lượng Hạt nhân, theo đó, quốc gia này sẽ cấm xây dựng và vận hành các nhà máy điện hạt nhân mới, tiến tới loại bỏ các nhà máy điện hạt nhân. Trong khi đó, nhiều quốc gia khác vẫn tích cực xây dựng thêm những nhà máy điện hạt nhân mới.

Sau khi Quốc hội Đức thông qua việc sửa đổi Luật Năng lượng Hạt nhân không lâu, vào cuối năm 2003, nước Đức đã bắt đầu công cuộc đưa điện hạt nhân xuống... nghĩa địa bằng việc khai tử nhà máy điện hạt nhân đầu tiên của mình – nhà máy điện hạt nhân Stade.

Dự kiến trong vòng 20 năm nữa, Đức sẽ xóa sổ hoàn toàn 19 nhà máy điện hạt nhân, cho dù hiện tại, nó vẫn là nguồn cung cấp năng lượng đáng kể cho đất nước này. Nhà máy điện hạt nhân Stade được đưa vào hoạt động từ tháng 1-1972 và là nhà máy thứ hai trong tổng số 19 nhà máy điện hạt nhân được đưa vào hoạt động ở Đức. Trong gần 32 năm hoạt động, nhà máy này đã sản xuất được 152 tỷ kW điện.

Công cuộc tháo dỡ nhà máy điện hạt nhân này khá hao tiền tốn của, người Đức sẽ phải tháo dỡ nó trong 10 năm, và tổng chi phí lên tới 500 triệu euro. Mặc dù vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, trong đó, có ý kiến cho rằng Đức sẽ không tìm đủ nguồn năng lượng thay thế năng lượng hạt nhân (chiếm khoảng 25% tổng năng lượng điện), nhưng việc tháo dỡ các nhà máy điện nguyên tử, đồng thời không xây thêm mới, vẫn là chính sách của quốc gia này.

Cùng chung quan điểm với Đức, các nước Bỉ, Thụy Điển đều đã phê chuẩn việc giới hạn hoạt động của các lò phản ứng hạt nhân, tiến tới loại bỏ.

Nhiều quốc gia phản đối xây dựng các nhà máy điện hạt nhân, thứ nhất là do lo sợ xảy ra các sự cố. Vì nguyên liệu sử dụng cho các nhà máy điện hạt nhân, là những chất phóng xạ cực kỳ nguy hiểm. Ngoài những hậu quả trực tiếp, khi xảy ra sự cố, nó còn gây hậu quả lâu dài đến cuộc sống con người. Hầu như ai cũng biết sự cố xảy ra tại nhà máy điện hạt nhân Chernobyl.

Người ta đã phải phủ một lớp bê tông dày lên những lò phản ứng ở trong lòng đất. Nhưng việc làm này bắt đầu trở nên vô tác dụng khi chất phóng xạ sắp rò rỉ qua lớp bê tông này. Điều đó khiến cho cả châu Âu lo lắng và họ đang tính toán giúp Ucraina một khoản tài chính lớn để nước này phủ lên những lò hạt nhân hỏng tại đây một lớp thép dày. Chưa bao giờ người ta công bố những con số thiệt hại do vụ nổ nhà máy này gây nên. Một phần vì điều này rất khó thống kê, ngoài những người chết trực tiếp trong vụ nổ, còn rất nhiều người chết dần chết mòn do nhiễm phóng xạ, cũng như con cháu đời sau họ vẫn còn phải chịu đựng. Tuy nhiên, có thể hình dung phần nào hậu quả của nó qua vụ nổ tạo ra những đám mây phóng xạ, và những đám mây này bay sang cả những quốc gia lân cận và reo rắc hậu quả.

Một quốc gia tiên tiến như Nhật Bản cũng từng gặp những bê bối về năng lượng hạt nhân. Từ cuối thập kỷ 1980 TEPCO – tập đoàn năng lượng lớn nhất Nhật Bản đã phát hiện một số lỗi trong hoạt động của lò phản ứng, nhưng họ đã cố tình giấu giếm. Đến khi bị phát giác, Chủ tịch TEPCO và một số cộng sự phải từ chức. Đến tháng 4-2003 tất cả 17 lò phản ứng của TEPCO với tổng công suất điện hơn 16.000 MW (gấp 8 lần Nhà máy thủy điện Hòa Bình) buộc phải đóng cửa. Vụ bê bối này khiến dân chúng Nhật bắt đầu mất niềm tin vào điện hạt nhân. Tất nhiên, đây không phải là bê bối đầu tiên của Nhật Bản. Tương tự, sự cố cũng từng xảy ra ở những quốc gia phát triển nhất thế giới như Mỹ, Đức...

Sự cố xảy ra ở những nước tiên tiến trên làm cho công chúng chống đối điện hạt nhân ngày càng tăng. Một số nước xây xong hoặc gần xong nhà máy điện hạt nhân vẫn phải đóng cửa, không đưa vào hoạt động vì sợ không an toàn. Nước láng giềng Philippin là một ví dụ, họ sẵn sàng vứt không mấy tỉ đô la xây dựng nhà máy (đã xong 90%) chứ không đưa vào sử dụng.

Người ta phản đối điện hạt nhân, còn vì các nhà máy điện hạt nhân tạo ra chất thải phóng xạ chết người. Trước đây người ta vẫn xử lý bằng cách chôn sâu trong lòng đất. Tuy nhiên, những nhà bảo vệ môi trường cho rằng, chúng sẽ gây hậu quả cho con cháu mai sau. Vì chất thải hạt nhân có thể gây tác hại trong hàng chục nghìn năm sau.

Hiện thế giới có gần 450 lò phản ứng hạt nhân. Trong khi một số quốc gia châu Âu tính chuyện loại bỏ các lò phản ứng hạt nhân thì châu Á lại tích cực phát triển. Những nước xây dựng nhiều nhà máy điện hạt nhân trong những năm gần đây là Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ và CHDCND Triều Tiên.

Các quốc gia tích cực xây dựng nhà máy điện hạt nhân cho rằng, đây là giải pháp rẻ tiền để giảm sức ép về năng lượng hóa thạch (dầu mỏ, than đá...) đang cạn kiệt (đây cũng là nguồn năng lượng gây hiệu ứng nhà kính). Tuy nhiên, những quốc gia phản đối điện hạt nhân cho rằng, có thể dùng năng lượng tái tạo như năng lượng gió, mặt trời để thay thế.

Vấn đề xây dựng nhà máy điện hạt nhân khiến châu Âu phân làm hai cực. Trong khi đầu tàu của kinh tế châu Âu, nước Đức quyết tâm nói không với điện hạt nhân, thì Pháp lại là nước ủng hộ, và họ còn là nước xuất khẩu công nghệ xây dựng nhà máy điện hạt nhân.

Còn nhớ cách đây không lâu, Philippe Jamet, Giám đốc bộ phận an toàn lắp đặt hạt nhân của IAEA (Cơ quan năng lượng nguyên tử thế giới), nói rằng các nước còn xa lạ hoặc đang làm quen với điện hạt nhân phải hết sức thận trọng, vì ta có thể học từ sai lầm đối với các lĩnh vực khác nhưng với điện hạt nhân thì không. Mỗi sai lầm gắn liền với mạng sống con người thuộc không chỉ một thế hệ.
Source: daidoanket
Read full post...

Cần ưu đãi cho địa phương xây nhà máy điện hạt nhân

14/05/2008
"Đây là luật chuẩn bị rất công phu với gần 100 điều, nội dung cụ thể, nhiều điều chỉnh với phạm vi rộng", ĐB Đinh Xuân Thảo (Kiên Giang) phát biểu tại phiên thảo luận sáng 13/5 về Dự án Luật Năng lượng nguyên tử.

Hầu hết ý kiến trên nghị trường đều thống nhất rằng tuy đây là một dự án luật rất khó, tính chuyên ngành cao nhưng cơ quan soạn thảo và đơn vị thẩm tra đều đã chuẩn bị kỹ lưỡng và công phu so với khá nhiều dự án luật khác.

Điện hạt nhân: một giải pháp kinh tế, an toàn

Các ĐB nhanh chóng thống nhất với hầu hết nội dung dự án luật và cho rằng đây sẽ là cơ sở pháp lý để ứng dụng năng lượng nguyên tử vào phát triển kinh tế xã hội. Trước mắt, điện hạt nhân sẽ là một giải pháp kinh tế, an toàn và là nguồn năng lượng sạch trong bối cảnh các nguồn năng lượng truyền thống đang cạn kiệt.

Bàn thảo nhiều nhất là cơ chế cho các địa phương sẽ xây nhà máy điện hạt nhân đầu tiên.

ĐB Võ Minh Thức (Phú Yên) trình bày, trước kia, Phú Yên cũng dự kiến tiếp sau Ninh Thuận, tỉnh này sẽ chọn một địa điểm xây nhà máy. Tuy đây mới chỉ là ý định nhưng địa phương đã "vấp" phải nhiều bức xúc của người dân.

Theo ông Thức, lo lắng trước tiên là về độ an toàn, sau đó là quyền lợi của nhân dân ở trong vùng xây nhà máy. "Đây là lợi ích thiết thực quốc gia nhưng khi thiệt hại xảy ra thì cục bộ địa phương bị ảnh hưởng trước", ông Thức nói.

Ông phân tích, tuy dự thảo Luật có nói đến việc sẽ quan tâm, chú trọng đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật, phát triển văn hóa, giáo dục cũng như một số vấn đề phúc lợi tại khu vực dự án, nhưng nếu nói vậy vẫn chưa cụ thể và chưa đủ sức thuyết phục người dân.


ĐB Bùi Thị Hòa (Đăk Nông) cũng chia sẻ thêm, với những địa bàn được chọn để xây nhà máy điện hạt nhân thì phải có những quy định rất rõ, cụ thể hơn để có chính sách đặc thù, chính sách ưu tiên.

Quan tâm nhất là vấn đề an toàn bức xạ

Đại diện cho Ninh Thuận, địa phương đầu tiên sẽ xây dựng nhà máy điện hạt nhân, ĐB Nguyễn Thị Mai giãi bày nỗi lo khác, "Cử tri lo lắng rằng khi địa phương có nhà máy điện hạt nhân, việc thu hút đầu tư và du lịch sẽ bị hạn chế, cũng như ảnh hưởng của phóng xạ đến môi trường sống. Đề nghị chính sách của Nhà nước đối với các địa phương có nhà máy điện hạt nhân cần quy định cụ thể hơn, địa phương phải được hưởng lợi từ chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, giao thông, văn hóa, khoa học và công nghệ phát triển".

Bà Mai cũng cũng yêu cầu Luật nên quy định phải có báo cáo thường xuyên việc kiểm tra sức khỏe cho cộng đồng dân cư sinh sống xung quanh và thường xuyên đánh giá tác động môi trường.

"Tham quan một số nhà máy điện hạt nhân ở Nhật, tôi quan tâm nhất là vấn đề an toàn bức xạ. Chúng tôi đã nhìn thấy một bức tranh tổng thể là nhà máy điện hạt nhân được xây dựng sát biển, cách nhà máy khoảng 500m là khu dân cư sống đông đúc với những công viên, cây xanh tươi tốt, có trung tâm sinh hoạt thể thao, văn hóa trên biển, gần đó có ngư dân đánh bắt cá. Họ cho biết, thường xuyên có chuyên gia đánh giá tác động môi trường như đo nhiệt độ nước, nồng độ muối, sự biến động của thủy, hải sản, đặc biệt là thường xuyên kiểm tra sức khỏe cho dân sống xung quanh", bà Mai kể lại.

ĐB Trịnh Thị Giới (Thanh Hóa) nói thêm: "Xây nhà máy điện hạt nhân là vấn đề nhạy cảm vì tâm lý của nhân dân và địa phương thường e ngại. Không phải chỗ nào cũng đặt được nhà máy điện hạt nhân và số lượng nhà máy cũng sẽ chưa nhiều vì vậy nên có chính sách đặc thù cho địa phương và người dân".

Dự kiến, Luật Năng lượng nguyên tử sẽ được thông qua vào ngày 3/6 tới.

Source: VNN
Read full post...

New Wave of Nuclear Plants Faces High Costs

May 12,2008
By REBECCA SMITH

A new generation of nuclear power plants is on the drawing boards in the U.S., but the projected cost is causing some sticker shock: $5 billion to $12 billion a plant, double to quadruple earlier rough estimates.

Nuclear power is regaining favor as an alternative to other sources of power generation, such as coal-fired plants, which have fallen out of favor because they are major polluters. But the high cost could lead to sharply higher electricity bills
for consumers and inevitably reignite debate about the nuclear industry's uitability to meet growing energy needs.

Nuclear plants haven't been built in meaningful numbers in the U.S. since the 1980s. Part of the cost escalation is bad luck. Plants are being proposed in a period of skyrocketing costs for commodities such as cement, steel and copper; amid a growing shortage of skilled labor; and against the backdrop of a shrunken supplier network for the industry.

The price escalation is sobering because the industry and regulators have worked hard to make development more efficient, in hopes of eliminating problems that in the past produced harrowing cost overruns. The Nuclear Regulatory Commission, for example, has created a streamlined licensing process to make timelier, more comprehensive decisions about proposals. Nuclear vendors have developed standardized designs for plants to reduce construction and operating costs. And utility executives, with years of operating experience behind them, are more astute
buyers.

Now, 104 nuclear reactors are operating in the U.S. Most are highly profitable but that was not the case until fairly recently. For the 75 units built between 1966 and 1986, the average cost was $3 billion or triple early estimates, according to the Congressional Budget Office. Many plants operate profitably now because they were sold to current operators for less than their actual cost.

The latest projections follow months of tough negotiations between utility companies and key suppliers, and suggest efforts to control costs are proving elusive. Estimates released in recent weeks by experienced nuclear operators -- NRG Energy Inc., Progress Energy Inc., Exelon Corp., Southern Co. and FPL Group Inc. -- "have
blown by our highest estimate" of costs computed just eight months ago, said Jim Hempstead, a senior credit officer at Moody's Investors Service credit-rating agency in New York.

Moody's worries that continued cost increases, even if partially offset by billions of dollars worth of federal subsidies, could weaken companies and expose consumers to high energy costs.

On May 7, Georgia Power Co., a unit of Atlanta-based Southern, said it expects to spend $6.4 billion for a 45.7% interest in two new reactors proposed for the Vogtle nuclear plant site near Augusta, Ga. Utility officials declined to disclose total costs. A typical Georgia Power household could expect to see its power bill go up by $144 annually to pay for the plants after 2018, the utility said.

Bill Edge, spokesman for the Georgia Public Service Commission, said Georgia "will look at what's best for ratepayers" and could pull support if costs balloon to frightening heights. The existing Vogtle plant, put into service in the late 1980s, cost more than 10 times its original estimate, roughly $4.5 billion for each of two reactors. FPL Group, Juno Beach, Fla., estimates it will cost $6 billion to $9 billion to build each of two reactors at its Turkey Point nuclear site in southeast Florida. It has picked a reactor design by Westinghouse Electric Co., a unit of Toshiba Corp., after concluding it could cost as much as $12 billion to build plants with reactors designed by General Electric Co. The joint venture GE Hitachi Nuclear Energy said it hasn't seen FPL's calculations but is confident its units "are cost competitive compared with other nuclear designs."

Exelon, the nation's biggest nuclear operator, is considering building two reactors on an undeveloped site in Texas, and said the cost could be $5 billion to $6.5 billion each. The plants would be operated as "merchant" plants and thus would not have utility customers on the hook to pay for them, as is the case in both Florida and Georgia. Instead, they would have to cover expenses through wholesale power sales.

Several things could derail new development plans. Excessive cost is one. A second is the development of rival technologies that could again make nuclear plants look like white elephants. A drop in prices for coal and natural gas, now very expensive, also could make nuclear plants less attractive. On the other hand, if Congress decides to tax greenhouse-gas emissions, that could make electricity from nuclear plants more attractive by raising costs for generators that burn fossil fuels. Nuclear plants wouldn't have to pay the charges because they aren't emitters.

Some states are clearing a path for nuclear-power development, even before costs are fully known. They are inspired by a growing fear of climate change. "The verwhelming feeling in Florida is that nuclear power is popular and that's why it's going to go ahead," said J.R. Kelly,head of the Office of Public Counsel in Tallahassee, which represents consumers. "Our main concern is the tremendous cost."

In Florida, state officials are allowing utilities to collect money from customers to cover development and construction costs. In the past, regulators typically required utilities to bear the costs until plants were finished.

Many utilities said they are watching with interest. Ralph Izzo, chief executive of Public Service Enterprise Group Inc. in New Jersey, said his company may not be big enough to build a nuclear plant, even though it is a nuclear operator. "We're concerned by the rise in construction costs," he said.
Source: vwj.com
Read full post...

Phát triển điện hạt nhân: Cần lường trước thách thức lớn

10/05/2008
Việc lập kế hoạch xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở một số địa phương tại Việt Nam đang thu hút sự quan tâm của dư luận.

Xung quanh vấn đề này, hiện vẫn còn có nhiều ý kiến khác biệt. Để độc giả có thêm thông tin tham khảo, VnEconomy đã có cuộc trao đổi thẳng thắn với TS. Phạm Khánh Toàn, Viện trưởng Viện Năng lượng (Tập đoàn Điện lực Việt Nam).

Sạch hơn, rẻ hơn, ổn định hơn?

Thưa ông, điện hạt nhân là một trong những phương án đa dạng hóa nguồn cung cấp năng lượng được chú ý, nhưng hiện vẫn còn những ý kiến trái ngược nhau…


Nếu được đánh giá đúng vai trò, điện hạt nhân sẽ có triển vọng phát triển rất tốt ở Việt Nam. Tuy nhiên, cũng có những thách thức lớn cần phải lường trước.

Công nghiệp điện hạt nhân trên thế giới đã có lịch sử phát triển hơn 50 năm. Những năm cuối thập kỷ 70, điện hạt nhân đã phát triển rất nhanh. Tuy nhiên, sự cố Three Mile Island (Mỹ ) năm 1979 và thảm hoạ Chernobyl (Liên Xô cũ ) năm 1986 đã làm chậm lại tốc độ của ngành năng lượng mới này.

Nhưng đầu thế kỷ 21, công nghiệp điện hạt nhân đã có bước phát triển mới. Hiện trên thế giới có khoảng 440 lò đang hoạt động, 31 lò đang được xây dựng tính đến năm 2007, cùng nhiều lò đang có kế hoạch xây dựng.

Trong khi đó, theo dự báo trong hai thập kỷ tới, Việt Nam phải phát triển gấp 7-8 lần khả năng cung cấp điện hiện tại mới đảm bảo nhu cầu của nền kinh tế. Điều đó có nghĩa là chúng ta sẽ phải xây dựng mới các nhà máy để cung cấp thêm hơn 80.000 MW điện.

Như vậy, việc tìm kiếm một nguồn cung cấp đảm bảo với giá thành rẻ và ổn định đang là vấn đề sống còn đối với nền kinh tế.

Nhưng điện hạt nhân thực sự có là nguồn năng lượng sạch và rẻ?


Các nghiên cứu về giá thành sản xuất điện của Pháp, Phần Lan, Mỹ, Nhật Bản đều đi đến kết luận rằng điện hạt nhân có giá thành rẻ hơn so với các nhà máy phát điện sử dụng than, dầu hoặc khí từ 10-20%, tùy thuộc vào các điều kiện xây dựng và vận hành. Đặc biệt, trong điều kiện giá nhiên liệu ngày càng tăng nhanh thì giá thành sản xuất điện hạt nhân lại càng trở nên cạnh tranh hơn.

Giải quyết được vấn đề ô nhiễm môi trường cũng làm tăng ưu thế của điện hạt nhân. Nhà máy điện hạt nhân không phát thải khí CO2.

Vậy thì với một nhà máy có công suất 1.000 MW, chi phí đầu tư ban đầu sẽ như thế nào?


Mặc dù đã được cải tiến và tiêu chuẩn hoá các thiết kế để giảm chi phí, nhưng việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân vẫn đòi hỏi một nguồn vốn rất lớn và thời gian xây dựng dài, với các công nghệ phức tạp.

Nguồn vốn đầu tư cho một tổ máy phát điện 1.000 MW có thể lên tới hơn 2 tỷ USD.

Ngoài ra, nguồn nhiên liệu cung cấp cho hoạt động của các nhà máy này có ổn định và tin cậy?


Nhà máy điện hạt nhân đòi hỏi chi phí đầu tư ban đầu rất lớn nhưng chi phí vận hành rẻ. Khi xây đưa vào vận hành, nguyên liệu chủ yếu là các bó thanh nhiên liệu (thông thường là uranium). Nhiên liệu sẽ trải qua quãng thời gian vài năm trong lò phản ứng.

Theo các số liệu đã khảo sát, nguồn nhiên liệu uranium được phân bố khá dồi dào tại Úc, Canada, Nam Phi, Kazakhstan, Brazil, Mỹ, Nga… đủ đảm bảo cung ứng cho ngành công nghiệp hạt nhân trong thời gian dài.

Đó là chưa tính tới việc sử dụng nhiên liệu hỗn hợp và sự phát triển công nghệ lò tái sinh sẽ đem lại cơ hội sử dụng nhiên liệu là thorium lên tới hàng nghìn năm.

“Một sai lầm nhỏ cũng có thể dẫn đến hậu quả lớn”


Khi phát triển các nhà máy điện hạt nhân, chúng ta sẽ phải phụ thuộc vào công nghệ của nuớc ngoài. Tính an toàn của những công trình này sẽ được bảo đảm như thế nào?


Xu hướng gần đây cho thấy lò nước nhẹ công suất lớn (bao gồm cả lò nước sôi và lò nước áp lực) đang chiếm ưu thế trong các dự án đang được xây dựng, cũng như các dự án có kế hoạch xây dựng.

Trên thế giới hiện hình thành 3 liên minh cung cấp thiết bị lớn là Westinghouse - Toshiba, Areva - Mitshubishi, General Electric - Hitachi. Ngoài ra, Atomstroi của Nga cũng là nhà thầu có nhiều dự án đang xây dựng ở nước ngoài.
Lựa chọn công nghệ phù hợp với các đặc thù của Việt Nam cũng sẽ là một thách thức lớn cho những người có trách nhiệm đặt nền móng cho ngành công nghiệp nguyên tử.

Tuy nhiên vận hành và bảo dưỡng nhà máy an toàn trong một thời gian dài từ 40 – 60 năm mới là nỗi quan tâm lo lắng nhất. Một sai lầm nhỏ cũng có thể dẫn đến những hậu quả và thiệt hại to lớn.

Không giống như các nhà máy điện khác, vấn đề an toàn ở đây bao gồm cả vấn đề bảo vệ nhà máy chống lại mối đe doạ phá hoại từ bên ngoài (đe doạ gây thảm hoạ phóng xạ), và bảo vệ nguyên liệu hạt nhân.

Sự hậu thuẫn và ủng hộ của các cường quốc, cũng như các nước trong khu vực là một yếu tố quan trọng đảm bảo an ninh của các công trình này. Thêm vào đó, đội ngũ cán bộ trong nước cũng phải được đào tạo để tiếp nhận công nghệ mới trong thời gian sớm nhất. Tất cả những vấn đề này trong kế hoạch cũng đang được cân nhắc .

Chất thải hạt nhân cũng là vấn đề khiến nhiều người lo lắng. Bài toán này sẽ được giải quyết như thế nào?


Chất thải phóng xạ hiện là một vấn đề chưa có được hướng giải quyết triệt để.

Sau ba năm sử dụng, các thanh nhiên liệu đã cháy được coi là chất thải hoạt độ cao. Tại nhiều nước các chất bó thanh nhiên liệu này được lưu giữ tại nhà máy (thời hạn có thể đến 50 năm) rồi được vận chuyển đến địa điểm lưu trữ lâu dài.

Tuy nhiên, chưa nước nào có được một địa điểm ổn định lưu giữ chất phóng xạ cao này trong thời gian dài (1.000 - 100.000 năm), mà mới chỉ ở mức độ mô phỏng trên mô hình (Pháp). Nhưng các nghiên cứu về xử lý và quản lý chất thải hoạt độ cao đang được nhiều nước trên thế giới quan tâm đầu tư nghiên cứu.

Hy vọng, với tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ, sẽ sớm có giải pháp tối ưu cho vấn đề này trong thời gian tới.

Khi lập kế hoạch xây dựng các nhà mày điện hạt nhân, các ông có tổ chức thăm dò ý kiến nhân dân?


Các cuộc triển lãm và thăm dò dư luận tại Hà Nội, Tp.HCM, Ninh Thuận, Phú Yên do Viện Năng lượng và Viện Năng lượng nguyên tử (Bộ Khoa học và Công nghệ) tiến hành trong ba năm, cho thấy tỷ lệ ủng hộ của dân chúng rất cao.

Cụ thể, 90% thấy sự cần thiết của điện hạt nhân, 47,7% coi điện hạt nhân có ích và an toàn, chỉ có 4,6% coi là nguy hiểm.

Tuy nhiên, sự ủng hộ này đang bị giảm sút do thiếu sự tuyên truyền và những thông tin phổ cập. Khi ngành công nghiệp điện hạt nhân chứng minh được giá trị kinh tế, tính an toàn, bảo vệ môi trường, chắc chắn nó sẽ nhận được sự đồng thuận cao hơn.

Sẽ trình Quốc hội dự án điện hạt nhân


Hiện tại, để chuẩn bị cho những nhà máy đầu tiên có thể khởi công, Viện Năng lượng đã và đang làm những gì?


Việc chuẩn bị cho phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam đã được dự kiến từ thập kỷ 90 của thế kỷ trước. Tuy nhiên mới chỉ dừng ở nghiên cứu tổng quan.

Công việc chuẩn bị đã được triển khai từ 2002, khi Thủ tướng có ý kiến chỉ đạo lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi (báo cáo đầu tư) xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên của Việt Nam. Báo cáo này đã được Viện Năng lượng phối hợp cùng một số cơ quan liên quan khác trình Thủ tướng vào tháng 8/2005.

Cuối tháng tư vừa qua, Viện Năng lượng đã được Bộ Công Thương và Tập đoàn điện lực Việt Nam tiếp tục giao nhiệm vụ lập báo cáo đầu tư xây dựng nhà máy điện hạt nhân tại địa điểm Phước Dinh 1 và Phước Dinh 2 (Ninh Thuận).

Theo kế hoạch thì báo cáo đầu tư xây dựng hai nhà máy điện hạt nhân này sẽ trình Hội đồng Thẩm định Nhà nước, sau đó vào tháng 5/2009 sẽ trình Quốc hội. Mỗi địa điểm dự kiến xây dựng hai tổ máy. Mỗi tổ máy có công suất 1.000 MW. Dự kiến, tổ máy đầu tiên sẽ đi vào vận hành năm 2020.

Viện Năng lượng đồng thời đang tiến hành lập hai báo cáo quy hoạch địa điểm chi tiết tại Phước Dinh và Vĩnh Hải để có thể sớm trình Bộ Công Thương phê duyệt địa điểm, nhằm chuẩn bị các điều kiện cần thiết để xây dựng nhà máy.

Ngoài ra, để đáp ứng việc phát triển nhiều tổ máy điện hạt nhân trong tương lai, việc tiến hành tìm kiếm thêm các địa điểm khác là hết sức cần thiết. Công việc qui hoạch các địa điểm tiềm năng này đang được Viện nghiên cứu và sẽ sớm có báo cáo cụ thể.

Source: vneconomy
Read full post...

Điện hạt nhân trong tầm ngắm chiến lược

09/05/2008
Khoảng mười năm nữa, nhu cầu sử dụng điện Việt Nam sẽ tăng gấp đôi. Cuộc khủng hoảng cung cầu điện năng sẽ gay gắt gấp bội hiện nay. Trong tình thế đó, điện hạt nhân đang nằm trong tầm ngắm của các nhà chiến lược năng lượng…

Gay gắt cung cầu
Bước vào mùa hè 2008 này, cả nước ta đang chịu cảnh cắt điện theo lịch. Điều này chứng tỏ sự bắt đầu chu kỳ căng thẳng hàng năm giữa cung và cầu điện năng.

Lý do cũng dễ hiểu. Muốn bảo đảm sự cung cấp điện năng “thoải mái” cho người tiêu dùng, nhà cung cấp không chỉ cấp đủ mà phải có lượng điện dự trữ đề phòng những bất trắc, như hỏng hóc máy móc, thiếu nước cho nhà máy thủy điện, thiếu khí đốt hay than cho nhà máy nhiệt điện v.v…. Chẳng hạn, trong năm nay, theo Thứ trưởng Bộ Công thương Đỗ Hữu Hào, nhu cầu công suất điện là 12.000 - 13.000 megawatt (MW), trong khi khả năng cung cấp của tất cả các loại nhà máy điện hiện có chỉ khoảng 12.000 MW. Không có lượng điện dự trữ, nên ở những giờ cao điểm cả nước có thể thiếu đến khoảng 1.000MW. Do vậy, sự căng thẳng điện năng đang xảy ra là điều không tránh khỏi.

Trong một tương lai gần, 10 - 20 năm nữa, sự cân bằng cung cầu càng gay gắt gấp nhiều lần, nếu cấu trúc điện năng nước ta không thay đổi căn bản.

Ở các nước công nghiệp phát triển, thông thường nếu GDP tăng tỷ lệ 1% thì điện năng tăng tương ứng 1,5%, còn những nước như Việt Nam ta, điện năng tăng gấp đôi so với GDP. Bức tranh cung cầu về điện cho những năm 2015 và 2020 được minh họa trên đồ thị kèm theo. Màu vàng mô tả khả năng đáp ứng bằng mọi nguồn điện năng hiện có trong nước. Màu xanh mô tả nhu cầu điện năng, theo hai giả thiết khác nhau: sử dụng điện ở mức cao nhất; gọi là kịch bản cao (HS) hay thấp nhất; gọi là kịch bản thấp (LS).
Bức tranh cung cầu điện năng nước ta năm 2015 và 2020
(Chú thích: Con số trên trục bên trái chỉ lượng điện tổng cộng/ năm,
tính bằng đơn vị TWh; 1TWh = 1012 Wh =1Tỉ KWh)

Theo bức tranh trên, đến năm 2015, mức chênh lệch giữa cung và cầu điện năng sẽ là 46,3 TWh (kịch bản thấp) và 102,4 TWh (kịch bản cao). Còn đến năm 2020, mức chênh lệch giữa cung và cầu điện năng sẽ cao hơn nhiều: 159,8 TWh (kịch bản thấp) và 270,8 TWh (kịch bản cao). Như vậy, cùng với sự tăng trưởng GDP, khoảng cách giữa cung và cầu điện năng càng lớn, càng gay gắt, nếu không có một sự thay đổi căn bản cấu trúc các thành phần điện năng, hay nói cách khác chưa có một nguồn điện năng nào có thể đóng vai trò cứu cánh.

“Cứu cánh” chưa tồn tại

Thử đặt mọi nguồn điện năng đang tiềm tàng lên bàn phân tích.

Trước hết là thủy điện. Thủy điện đã và đang được khai thác triệt để. Nhưng nguồn tài nguyên “trắng’ và sạch đó không phải là vô tận.

Sau nhà máy thủy điện Sơn La đang xây dựng, những nhà máy công suất lớn, cỡ 1.000 MW (megawatt), thậm chí 600 MW cũng không còn nữa. Từ nay, chỉ còn có thể xây dựng các nhà máy thủy điện nhỏ với công suất khoảng 350 MW trở lại. Và tổng điện năng của các thủy điện nhỏ đó, dù có khai thác hết, đến năm 2020 cũng chỉ đạt khoảng 4.500 - 5.000 MW, tương đương một điện lượng xấp xỉ 40 - 45 TWh/năm. Con số này quả là còn xa với nhu cầu đối với kịch bản cao (khoảng 270 TWh) trong năm 2020. Điều này có nghĩa là thuỷ điện chưa phải là nguồn điện cứu cánh cho đất nước trong tương lai gần, một hai thập kỷ tới.

Nhiệt điện than và dầu khí? Đây là dạng năng lượng chủ chốt đang được tập trung khai thác. Nhưng nguồn dự trữ khí ngoài biển rất hạn chế. Dầu cũng không phải quá dồi dào, nếu không nói là sẽ cạn kiệt trong vài chục năm nữa. Mặt khác, càng ngày dầu mỏ càng trở nên nguyên liệu quý hiếm cho nhiều ngành công nghiệp, nên việc đốt dầu thành điện là sự lãng phí đáng tiếc. Vì lẽ đó, trong lĩnh vực nhiệt điên, chủ yếu phải dựa vào điện than.

Nhưng điện than chứa đựng những trở ngại rất lớn. Trước hết, với khả năng khai thác nội địa rất hạn chế hiện nay, nước ta phải nhập một lượng than “kinh khủng”, khoảng vài ba chục triệu tấn than đá mỗi năm. Điều này, trước hết, sẽ gây ra tình trạng ô nhiễm lớn cho một loạt bến cảng bốc dở than, hay ô nhiễm môi trường nhiều vùng biển rộng lớn của nước ta. Chỉ riêng việc này đã làm mất tính hấp dẫn của loại hình nhiệt điện than. Nhưng điều quan ngại lớn hơn của nhiệt điện than chính là khí phát thải, là hiệu ứng nhà kính, là sự biến đổi khí hậu toàn cầu hiện đang đe dọa cuộc sống và sự phát triển mọi quốc gia trên trái đất.

Liệu có dám chấp nhận mọi trả giá, phát triển ồ ạt nguồn nhiệt điện để biến nó trở thành “con át chủ bài” ngành điện trong những năm 2010-2020 và nhiều năm sau đó, bất chấp những thoả thuận quốc tế ở Kyoto trước đây và Bali mới đây?

Các nguồn năng lượng mới? Năng lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng sinh học quả là những nguồn năng lượng sạch, cần thiết và đang được đầu tư nghiên cứu phát triển ở nhiều nước công nghiệp phát triển. Đó có thể là nguồn điện thực sự cứu cánh của nhân loại trong một tương lai xa, giữa và cuối thế kỷ 21.

Tuy nhiên, hiện nay và trong tương lai gần, xét về phương diện công nghệ cũng như kinh tế (giá thành) các nguồn điện năng này đang còn nhiều hạn chế. Theo tính toán, khả năng đóng góp tất cả các nguồn điện năng này trong năm 2020, ở nước ta, cũng chỉ khoảng 2800 MW, tương đương công suất của hai lò phản ứng hạt nhân năng lượng. Con số đó dù đáng khích lệ, nhưng vẫn nhỏ bé so với nhu cầu điện năng quốc gia.

Vậy giải pháp nhập khẩu năng lượng? Đây là một giải pháp hiện thực, đang được khai thác và sẽ đẩy mạnh hơn trong tương lai. Chúng ta đang nói đến nhập khẩu điện từ các nước láng giềng như Lào, Trung Quốc, Campuchia và nhập khẩu than, chẳng hạn từ Úc. Theo dự tính, đến năm 2015, để bảo đảm cân đối năng lượng, nước ta có thể nhập khoảng 13 TWh điện và khoảng 35 triệu tấn than (theo kịch bản cao).

Đến năm 2020, nếu không có giải pháp mới nào khác, năng lượng nhập khẩu dự tính phải lớn hơn, chiếm khoảng 38-53% tổng năng lượng cần thiết. Ở đây, lại nảy sinh vấn đề nghiêm trọng khác - an ninh năng lượng quốc gia. Một chiến lược năng lượng quá phụ thuộc nước ngoài hẳn là phiêu lưu và chỉ có thể chấp nhận trong những trường hợp bất khả kháng. Dù rằng nhập khẩu năng lượng ở một mức độ nhất định, có tính toán là một trong những giải pháp giải pháp cần thiết, không thể bỏ qua.

Cuối cùng là giải pháp tiết kiệm năng lượng. Đây là giải pháp chung của mọi quốc gia. Đối với các nước đang phát triển, như Việt Nam, càng có ‎ nghĩa đặc biệt. Tuy vậy, chính sách tiết kiệm năng lượng cũng chỉ góp phần giảm bớt chứ không thể giải quyết căn bản tình trạng mất cân bằng gay gắt cung cầu điện năng.

Nhìn chung, các giải pháp điện năng đưa ra trên đây đều cần được quan tâm xem xét, đều có vai trò nhất định trong mạng lưới điện quốc gia. Nhưng, quả thật, chưa có giải pháp nào trong đó có thể xem là cứu cánh cho ngành năng lượng Việt Nam, giúp chúng ta thoát khỏi cuộc khủng hoảng cung cầu, ít nhất, trong một vài thập kỷ tới. Do đó, việc tiếp cận nguồn năng lượng mới khác, như điện hạt nhân, là điều tất yếu.

Điện hạt nhân mang tầm chiến lược

Điện hạt nhân, trong nhiều năm nay, được các nhà chiến lược và công nghệ năng lượng nước ta quan tâm, bởi sự hội tụ những ưu điểm nội tại về mặt công nghệ và kinh tế, mặt khác thích ứng với chiều hướng hồi sinh của điện hạt nhân trên thế giới trong những năm gần đây.

Dù vẫn còn những lo lắng và e ngại về tính an toàn lò phản ứng hạt nhân và việc chôn cất chất phóng xạ, nhưng 20 năm qua kể từ sự cố Chernobyl, sự vận hành an toàn của hàng trăm lò phản ứng rải rác trên thế giới và sự xuất hiện nhiều biện pháp công nghệ an toàn khác nhau đã đem lại niềm tin mới cho dân chúng đối với công nghệ điện hạt nhân.

Đặc biệt, trong xu thế của thế giới đối phó hiểm họa biển đổi khí hậu toàn cầu hiện nay, điện hạt nhân quả là sự lựa chọn thích hợp, góp phần tích cực thay thế các nhà máy nhiệt điện sử dụng nhiên liệu hoá thạch, nhằm giảm hạn chế phát thải khí ô nhiễm môi trường gây hiệu ứng nhà kính. Các yếu tố quan trọng khác đối với những nước đang phát triển như nước ta là điều kiện khá thuận lợi trong việc nhập công nghệ nhà máy điện hạt nhân từ các nước tiên tiến và sự bảo đảm chắc chắn nguồn nhiên liệu uranium nội địa và ngoại nhập trong bối cảnh quốc tế hiện nay.

Tất cả những yếu tố trên cùng với công suất lớn của các lò phản ứng hạt nhân năng lượng trên thị trường thế giới đã mở ra khả năng đáp ứng phần đáng kể nhu cầu điện năng cho đất nước trong tương lai sắp tới, từ năm 2020 đến giữa thế kỷ 21. Vì lẽ đó, phát triển điện hạt nhân đã trở thành nhiệm vụ mang tầm chiến lược của quốc gia hiện nay.

Thực tế trong nhiều năm qua, đặc biệt trong vài năm gần đây, Nhà nước đã có những động thái chuẩn bị cần thiết và nay đang đưa ra những quyết sách mạnh mẽ. Chẳng hạn, vào giai đoạn 1991-1995, trong Chương trình Nhà nước về Khoa học Công nghệ mang mã số KC-09, điện hạt nhân đã được chính thức bắt đầu nghiên cứu, khảo sát qua đề tài “Nghiên cứu khả năng đưa điện nguyên tử vào Việt Nam”. Sau nhiều năm chuẩn bị, vừa qua, năm 2007, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định ban hành “Chiến lược ứng dụng NLNT vì mục đích hoà bình đến năm 2020” và “Kế hoạch tổng thể” thực hiện bản Chiến lược nói trên.

Việc đầu tư nhà máy điện hạt nhân tại Việt Nam đã được nêu rõ trong Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về “Phê duyệt quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2006-2015 có xét đến năm 2025’. Chính phủ đang chỉ đạo EVN lập dự án đầu tư xây dựng 2 nhà máy điện nguyên tử với công suất tổng cọng 4.000MW. Về thời hạn, dự kiến đến năm 2020 tổ máy điện hạt nhân đầu tiên sẽ đưa vào hoạt động, và đến năm 2025, mạng lưới điện quốc gia sẽ được bổ sung 11.000MW công suất điện hạt nhân (bằng 5,5 lần công suất của nhà máy thủy điện Hòa Bình hiện nay), tăng tỷ trọng điện hạt nhân, trong toàn bộ hệ thống điện quốc gia, lên đến con số 20-30%.

Về phương diện pháp l‎ý, một Dự án Luật Năng lượng Nguyên tử đã được xây dựng bởi một ban soạn thảo với sự tham gia của các chuyên gia luật pháp và khoa học công nghệ hạt nhân. Dự án này đã đệ trình xin ý kiến Quốc Hội khoá XII xem xét trong kỳ họp thứ 2, sau đó tổ chức để các đại biểu cử tri ở một số địa phương tham gia bổ sung. Chúng ta đang chờ đợi, ngay trong tháng 5.2008 này, tại kỳ họp thứ 3, Quốc Hội sẽ biểu quyết thông qua. Đây là bước đi rất quan trọng mở hành lang pháp lý chính thức phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam.

Chỉ còn 12 năm, kể từ nay đến lúc nhà máy điện hạt nhân đầu tiên của Việt Nam được ấn định phải đưa vào vận hành chính thức. Hàng loạt công việc phải giải quyết trong khoảng thời gian đó.
12 năm không phải là dài. Hy vọng đúng mốc thời gian đó, năm 2020, Việt Nam sẽ không lỡ hẹn và sẽ chính thức đi vào lịch sử như là một trong những quốc gia đầu tiên ở Đông Nam Á có điện hạt nhân.
Source: VNN
Read full post...
Add to Technorati Favorites

From vituyen blog